Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Thống Nhất - Hoàng Thụy Anh - Triệu Nguyên Phong - Đặng Văn Sử - Ngô Minh - Nguyên Hào
NGUYỄN THIỀN NGHI
Phượng
Không bắt kịp em trong màu phố
Tôi như con chim lạc tiếng hót trên ngực đời xanh biếc
Trên nụ cười ngúng nguẩy thơm mùi trăng non
Mãi xa mãi gần
Của dòng thời gian sưởi nuôi nụ cười phượng
Mỗi con đường tôi qua nỗi nhớ ẩn hình trăng
Dáng em trắng tựa lời tỏ tình của loài thực vật
Nơi thương nhớ tạo hình lời thề bằng giọt sương
Nơi những nụ hôn kết thành ánh sáng
Nơi những con đường dát bóng giấc mơ
Không bắt gặp em giữa dòng người xanh ngắt nụ vui
Tôi thả hồn trôi trong tiếng thầm thì của phượng
Và gắn lòng vào những phút tình si
Nơi đường phượng bay có thay từng chiếc lá
Ngọn cuối cùng
Cũng chở nhớ người thôi
Mùa thu trở về quyện dính lời mây
Xanh xao tay ai con nắng trở mình
Chim treo áo chiều
Giữa hàng phượng lót tình mùa mới
Tôi con nhện nằm rối lưới sâu giăng
NGUYỄN THỐNG NHẤT
Phải lòng Sapa
Đã phải lòng
Những Cát Cát, Lao Chải, Tả Van
Những Mông Đen, Dao Đỏ, Dáy, Tày
Những váy hoa bên xanh sườn núi
Những mũ đỏ bên vàng bậc thang
Đã phải lòng mây
Phải lòng gió hoang đàng
Lên bốn lăm độ, xuống mịt mù sương lối
Những phiên chợ người không cần vội
Anh áo đen dao quắm say vùi
Mỗi ngày đường là một cuộc vui
Trâu gác bếp, lợn cắp nách sảng khoái
Đã phải lòng Táo mèo, Sán lùng, Sâu chít
Chiều không em đành mắt đỏ mặt hồng
Khèn dập dìu vờn bóng bên song
Tình ra chợ mà không buôn bán
Đã phải lòng
Những bà mẹ địu con leo dốc
Váy xòe hoa, tay xe chỉ nuột nà
Cười kiểu Mông góc phố Sapa
Chiều về bản qua đèo búi tóc
Đã phải lòng cà phê quán dốc
Khuấy cho đều một cốc đầy mây
Ngày Sapa không rượu mà say
Cũng đã kịp thề non hẹn biển
Đã phải lòng như ong nhớ mật
Như cơm lam nhớ gói muối vừng
Như rượu ngô nhớ mùi thắng cố
Xuống đỉnh trời nhớ cả màu sương.
HOÀNG THỤY ANH
Lửa
mọc đôi cánh
luồn mướt từng sợi tóc
thả men màu núm trăng
du hành mùa đáy đêm
TRIỆU NGUYÊN PHONG
Bụi cỏ thiên đường
Nằm đếm bước chiều rơi
Ngang mùa trời trở gió
Đôi mắt buồn khe cửa
Thả hồn ngọn bấc bay
Ngày bỏ ngày chơi vơi
Chân chiều bên bờ vắng
Sợi tơ trời buộc nắng
Ngùi ngùi giọt sương sa
Hương ngày cũ chưa xa
Nghe đời nơm nớp gió
Mưa về qua phố cổ
Ướt bụi cỏ thiên đường.
ĐẶNG VĂN SỬ
Sóng
Vỗ
hồi
bọt kiếp nhân sinh
trộn
tan
thân cát
dúm hình… phù sa
có không: hình, sắc, sát-na?
sự vay trả
cõi phù hoa
dã tràng…
Gió
Gió đơm bờ hoa dại
quất vào lòng rét nhau
ru triền thương lời khảm
hát nỗi niềm trầu cau…
Gió chành chòng thuyền nhớ
đưa trăng về rất khuya
người hôn người tóc duỗi
hương vương tận bây giờ…
Gió đáp lời núi gọi
xao động lòng biển khơi…
Từ tay vốc vào gió
biết đã rơi…
quạt tình.
NGÔ MINH
Hà Nội hương
Tặng Lan Hương
Hà Nội mùa này… ngẩn ngơ câu hát
Huệ Hương thơm ngất ngưởng phố chiều
tóc như bão cuốn anh vào cõi khát
nghìn năm ơi, ngời ngợi thế này sao!
em thì thầm em nói cười thảng thốt
em gọi tên cho anh biết có mình
trái tim anh bao năm ngừng đập
bỗng chiều nay hồi hộp tái sinh
ta dìu nhau đêm Tây Hồ gió
Hà Nội mùa này đầy chật chỗ yêu
nào cạn chén sương đêm trắng quá
anh ngụp chìm trong suối rong rêu
anh nép vào dậy thì Hà Nội
nghe tim mình trống hội mùa say
em biết không, chỉ thế thôi cũng đủ
Huệ Hương anh Hà Nội mùa này…
NGUYÊN HÀO
Trước em
Anh phất cọ vào không gian
khuấy lên những gam màu siêu thực
Nét vẽ như nhảy xổ ra khỏi tranh
Ý tưởng bị khúc xạ
như tia sáng
lọt vào hố đen
Tháp Pisa
kết một khối tròn
ngại cắm sâu - đau mình đất
năng lượng tâm cân bằng trọng lực
chưa nhờ ai ghé sức
bóng đổ mòn thời gian
Trước tầm nhìn du khách
ngạo nghễ
Pisa
chỉ là nhún vai
nghiêng mình.
(TCSH327/05-2016)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.