Ngô Xuân Hội - Nguyễn Đức Mậu - Nguyễn Thụy Kha - Dương Thành Vũ
Tranh của HS Tôn Thất Đào
NGÔ XUÂN HỘI
Với Huế
Anh tiếc mình không có ở đây
Một người yêu thuở còn bé dại
Để sau bao cách xa tìm lại
Bóng dáng em trong bóng dáng kinh thành
Năm bốn mùa, Huế bốn mùa xanh
Những khu vườn tiếng chim, ánh nắng
Anh đi giữa ồn ào, yên ắng
Cung điện, lăng vua, phố chợ, cửa nhà...
Hỡi người yêu anh chưa có bao giờ
Em ở đâu trong màu xanh giăng mắc?
Đường thì bằng, anh bước cao bước thấp
Chỉ sợ bất ngờ em đâu đó hiện lên
Nhớ người xa, nhớ người ở kề bên
Anh là thế hay Huế là như thế
Sau tất cả những đổi thay, hưng, phế
Anh lần đầu gặp Huế hôm nay
Và anh ngỡ mình từng có ở đây
Một người yêu thuở còn bé dại...
1989
NGUYỄN ĐỨC MẬU
Tiếng vọng
Nhớ anh Nguyễn Minh Châu
Tôi đến thăm khi anh đang hôn mê
Đôi mắt khép
toàn thân nhẹ bẫng
Anh : ngọn nến chập chờn leo lét
Tôi khép vội cửa phòng sợ ngọn gió ùa vô
Im lặng đến lạnh người. Im lặng
Bình huyết thanh nặng nề nhỏ giọt
Tưởng nghe rõ tiếng máu đi trên cơ thể cỗi cằn
Tiếng thoi thóp quả tim sau làn vải mỏng
Im lặng đến rợn người. Im lặng
Tưởng nghe rõ tiếng thời gian trên mái đầu bạc xoá của anh
Tiếng gào thét giữa hai bờ sống chết
Một Chiếc Thuyền Ngoài Xa... Biển xanh
Anh đã trải qua cái đói và chiến tranh
Nhưng căn bệnh hiểm nghèo
Như định mệnh con người không dễ vượt
Có một mũi tên đường bay vạch sẵn...
Kìa bàn tay cầm bút của anh
Như chiếc lá mềm buông xuôi bất lực
Ôi cuộc đời khắc nghiệt thế này chăng
Bàn tay buông xuôi. Trang viết nửa chừng
Anh đã từng phân thân với nhiều số phận
Nhưng số phận anh chỉ người vợ hiền hiểu được
Chị đang ngồi hóa tượng bên anh
Đôi hốc mắt chắt ra từng giọt đau buồn
Im lặng đến lạnh người. Im lặng
Tôi nhìn thật sâu vào khuôn mặt anh
Khuôn mặt
Như một cánh buồm hút vào vô tận
Chợt vang lên tiếng vọng âm thầm...
NGUYỄN THỤY KHA
Nhớ Bungacốp
Gió tuyết đến nhường kia
Mátcơva những năm 20 ngột ngạt
tôi thấy Bungacốp tay cầm mẩu bánh mỳ
còn tay kia là cây bút.
Bé xíu mẩu bánh mỳ cuối cùng
cầm hơi một nhân cách như ông
cây bút dù còn mực
cũng không viết tụng ca một chữ một dòng.
Thế kỷ này tưởng tượng nhiều công bằng
tự do lắm sao quá nhiều oan trái
công an đông thêm người ăn mày đông thêm
ngày qua ngày ít đi người tử tế
Thế kỷ này để được sống thực người
sao cay đắng quá
bao thằng gào lên đổi mới đổi mới
bắng cái giọng cũ mèm nghe đến mốc meo ra
Thế kỷ này một nhân cách như ông
cũng đủ làm con người không sợ nữa
dù nhiều nhà văn bây giờ mọc nanh cắn xé nhau như chó
dù chó còn thủy chung hơn “đồng chí” với nhau
Hôm nay “Trái tim chó” của ông đập giữa cuộc đời
tôi buồn nhớ và ứa nước mắt
thế kỷ này còn nhiều Saricốp (*)
còn bao nhiêu nhân cách như ông.
12-88
____________
(*) Saricốp : Nhân vật người chó của Bungacốp trong truyện “Trái tim chó”
DƯƠNG THÀNH VŨ
Về quê xưa
Về quê xưa
ta con chim sơn ca bàng hoàng đánh rơi tiếng hót
trên cánh đồng trơ gốc rạ tháng tư
đứa bé không biết tuổi thơ còng lưng nhặt từng hạt rơi hạt rụng
nhìn ta.
Đôi mắt ánh lên bao câu hỏi
Câu trả lời trả vốn nghĩ mà run.
Chú bói cá lặng im với thời gian
ta soi bóng mình trên con hói cũ
thấy gương mặt già
kỷ niệm chìm khuất đâu đó
không nhớ ra
Thưa người, trót lỡ lầm nhau
Chơi liều lĩnh dễ, xa nhau khó lòng
Thức với trăng sao
nghe con dế kêu góc vườn xa lắc
kinh ngạc mùi hương
ta dội gàu nước giếng tràn trề
thương câu ca dao héo hắt
Và đôi lúc ta lai rai ngẫm nghĩ
Ta với đời trơ trọi một lòng tin
Con bướm vàng mơ
vô hồn ép trong trang sách
ta kẻ mù lòa trao truyền sấm giảng
trái tim khô kiệt lời ca
đôi khi ta lừa dối chính ta.
Người rằng, từ thuở biết nhau
Tóc thề trót thả một màu trăm năm.
(SH36/03&04-89)
Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.