Lê Văn Ngăn - Thanh Thảo - Vĩnh Nguyên - Hồ Hồng Trâm - Đăng Vũ - Mai Văn Hoan - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Đức Quang
"Mặt đất của tôi" - Tranh bao bố Hoàng Đăng Nhuận
LÊ VĂN NGĂN
Quà tặng
Anh gửi tặng em tiếng chuông đồng hồ điểm
Để hai nơi cách xa nhau ta cùng thức dậy lúc đêm khuya
Thầm hỏi về những tháng năm đã sống
Hạnh phúc thường đến kèm theo những nỗi sợ hãi
và anh sợ đến một ngày
Hạnh phúc biến thành nỗi bất hạnh
Anh gửi tặng em một khoảng trời đêm những rặng thông và gió
Để nhớ cuộc đời đã một lần
Xích chúng ta lại gần nhau
Biết bao năm nó vẫn giữ chút dịu dàng nơi mắt em
Như một lý do để sống
Để vượt qua những cảnh đời thô bạo
Anh gửi tặng em trang sách nói về lòng đất
Để biết những điều qúy báu thường ít lộ ra ngoài
Xin em cùng tin rằng giữa nhưng thứ ồn ào và những kẻ ồn ào
Luôn có những người lặng lẽ
Lặng lẽ như bông hoa như niềm hy vọng
THANH THẢO
Đà Lạt của tôi
Đà lạt của tôi là gánh bún bò
chợ Âm phủ
Đà lạt của tôi là đôi mắt buồn
tỏa xuống những ngọn đồi im ngủ
Đà Lạt của tôi sương dâng từ nách phố nghèo
thơm rau ngò
Đà Lạt của tôi em nhìn không nói
nhìn không nói
không nói
không
21.8.1987
VĨNH NGUYÊN
Vội vã Nha Trang
Thành phố ấy, với tôi thành vội vã
Còn đêm nay mai đã xa rồi
Bao con đường hướng ra phía biển
Như nhìn mình vào tấm gương soi
Không giấu giếm, không thể nào giấu giếm
Giấu làm chi số phận an bài
Sự tráo trở sẽ gặp nghìn sóng đánh
Bao nỗi buồn biển gội tan ngay
Nhưng sao em giã từ quá sớm
Tôi và thành phố thức đêm nay
Trên bãi biển những vầng điện sáng
Tôi hát bản tình ca quá đỗi thơ ngây
Em quay gót rượu không buồn rót
Tôi vùi chai rượu xuống lòng đêm
Tạm biệt Nha Trang với câu thề trên cát ướt
Hẹn ngày gặp lại bới chai lên
HỒ HỒNG TRÂM
Phụ nữ
Là trăng tách đôi
Ngực lên trắng ngần
Biển hoang
Đôi bờ
Sóng vỡ
Là trái đất tách đôi
Bầu vú
Lặng thầm
Dòng sông
Thơm sữa
Vòm ngực
Con chim lửa
Bụi vàng
Vó rắc...
Lời ru bóng đổ chân trời
Sự viên mãn muôn đời chia hai
Muôn đời
Ánh Ngày
Đêm tối
Muôn đời
Trên khung trời vòm ngực
Bình minh của sự dịu dàng lăn qua cát đắng.
ĐĂNG VŨ
Lời của người say rượu
Một hôm
tôi không thấy tôi ở đâu
tôi chạy đi tìm
ngọn gió cũng bôn ba xuôi ngược
chỉ thấy cây lá cửa nhà và người khác
Và rồi tôi va phải bức tường
hoá ra mình đang đứng bên đường
tay ôm vừng trán
Tôi bỗng hiểu
tìm được mình
là khi chạm vào giới hạn
là khi gặp nỗi đau.
1988
MAI VĂN HOAN
Điều bí mật
Anh muốn biết ở tôi điều bí mật
Nhưng đời tôi có bí mật được đâu
Nàng yêu tôi! Vâng, đó là sự thật
Và điều này người ta biết từ lâu
Nàng yêu tôi - chính tôi không ngờ được
(Giấu điều này tôi có lỗi với anh)
Thơ tôi viết về nàng biết bao người đã thuộc
Chuyện ái tình thiên hạ vốn đồn nhanh
Nàng thế nào chắc là anh đã rõ
Nàng là tiên hay là kẻ phàm trần?
Là cừu non hay nàng là rắn độc?
Nhưng với tôi điều ấy chẳng cần
Tôi say nàng và tôi mê tất cả
Chút mộng mơ, chút yếu đuối dại khờ
Chút rắn rỏi chút nồng nàn như lửa
Chút thông minh, chút tinh nghịch, dối lừa...
Có thể bây giờ nàng không yêu tôi nữa
Có thể nàng rồi sẽ thuộc về anh
Ở ngoài đời cuộc tình tôi tan vỡ
Nhưng trong tôi nó mãi mãi nguyên lành
NGUYỄN HỮU QUÝ
Quen
Ngày thường hết mấy thương quen
Con trâu quen ngõ, lũ chim quen mùa
Cánh cò quen những cơn mưa
Ngọn buồm quen gió, đôi bờ quen sông
Quen cay, em nhé là gừng
Muối thì quen mặn, khế thường quen chua
Áo em quen nắng, quen mưa
Anh quen em để bây giờ thiết tha
Xa nhau em biết đợi chờ
Như thuyền quen bến, như tơ quen tằm
Trang thư quen vượt núi ngàn
(Trái tim chiến sĩ thì thầm ở trong)
Thương em quen nói thực lòng
Em thương, nên cũng quen không giận hờn!
NGUYỄN ĐỨC QUANG
Mặt trời thảo nguyên
Bò cứ ăn mê mải đến vô tư
Chẳng biết có chiều đang xuống
Mặt trời tiếc gì còn níu lại
Chắc cũng thèm màu xanh
Thì ra cũng như tôi và anh
Mặt trời muốn chạy tung tăng trên cỏ
Hít thật sâu hương đất đai trong gió
Mát lành và tinh khiết như thơ
Chẳng có gì cản ngăn, chưa bất lực bao giờ
Thế mà thành đơn độc
Cả ta nữa có lúc nào sờ sững
Biết tuột khỏi tay mình những giây phút thảo nguyên...
May có mảnh trăng lưỡi liềm
Như lá cỏ bò chưa gặm hết...
Mộc Châu 4-88
(SH35/01&02-89)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi