Thơ Sông Hương 02-14

08:59 28/02/2014

Phùng Tấn Đông - Bạch Diệp - Nguyễn Man Kim - Đoàn Mạnh Phương - Ngô Công Tấn - Vĩnh Nguyên - Phan Trung Thành - Lê Hưng Tiến - Nhất Lâm - Châu Thu Hà - Nguyên Tiêu

Con ngựa đá - tranh Bửu Chỉ

PHÙNG TẤN ĐÔNG

Vĩ thanh tôi, em và Huế
 
mưa đã mười lăm năm Huế
ta con kiến trên dề củi khô mùa lụt trôi ra biển
một lưu đày một nguyên tội một si mê
ta con ngựa đá sân đền dựng bờm mà không tung nổi vó
đứng làm thông già làm phế tích làm ta
làm ta em ơi làm con trăng ngã ba Tuần đợi mưa khuya rỗ mặt
làm tím bông loa kèn rưng rức tiễn mây thu
làm một gió vu vơ một trời mưng nắng
một câu Kiều trong sách ngủ câm
không cỏ Đạm Tiên không bán mua không lầu xanh không Tiền
Đường không kêu cứu
sao em cứ mãi luân lạc trong ta một sắc nâu sồng

chợ Gia Lạc đã mười lăm phiên
ta con tò he bột sắn thổi chi chi chút chút tháng giêng mà không cầm
nổi tuổi
trách chi em ngày nọ Phú Lương mưa
ta câu hát trễ tàu nên trưa buổi chợ
ta kim chỉ Mậu Tài ông tơ lộn mối xe
biển Thuận An đã mười lăm năm sóng
ta lấy mây côi mà chắp vá cánh buồm
ta con gọng vó trên phá Tam Giang mê chơi không cất nổi cho em
một căn nhà bọt nước
con bửa củi tìm trầm trong ruột dó hoài công
rền vách đá Hải Vân tiếng hải triều vô lượng
ta trăm sóng trẻ trung đã vụn nát chân ghềnh
chừ dẫu có đi Cầu Hai có về Đá Bạc
rượu dẫu xui người say mấy cuộc nguôi quên

thì đành vắng hội Sình mấy bận
thì nhờ Hương Giang đôi bờ cỏ xanh
nhờ Lại Ân trai làng giục trống
nhờ nóc giáo đường rửa tội tháng giêng
nhờ phố Huế buông rèm giấc ăn giấc ở
nhờ bọt bèo đánh cuộc với lênh đênh




BẠCH DIỆP

Về nhà
          Kính tặng: ba mẹ và các em

Chật những giấc mơ tuổi thơ
Trên chuyến tàu trở về
Xóc nảy đường ray
Nỗi đau thị thành rơi từng cây số

Vàng dốc sỏi nâu
Nắng đan hàng dẻ
Đàn bò gặm cỏ ung dung
Ước chi đời mình cũng thế

Ngày xưa của con còn đó
Rám hồng đôi má bé thơ
Cơm ủ vần bên bếp nhỏ
Cỏ khô thơm ngọt góc nhà

Sân trước ba ngồi chẻ lạt
Chiến tranh vết sẹo liền da
Mẹ nghiêng vai bên gàu nước
Trăng xưa sóng sánh vỡ òa

Xe bò lộc cộc chở trăng
Nong vàng sao đêm thóc vẫy
Con tựa lưng chiếc cối xay
Đời người vòng quanh lối nhỏ

Quê hương tuổi thơ còn đó
Ấm êm một chốn con về
Phố phường ngày qua vội vã
Ngắn dài chẳng đủ giấc mơ
.



NGUYỄN MAN KIM

Bùa gió

bị mê hoặc
mù màu
khắc họa tình người bằng nét sắc không.

bí vần
thơ ghé chợ trời chữ nghĩa
mua bán trăng.

uống rượu giả nhưng say thật
diễn trò ảo giác
trắng đen
.



ĐOÀN MẠNH PHƯƠNG

Nói thầm

Nước nhạt,
hãy cho thêm muối hoặc đường, vị đắng cà phê, hay vị chanh chua
chát
Ngày nhạt,
thì cứ ngắm mặt trời lên, cứ nhìn chiều nắng tắt
Thơ nhạt,
thì thắp lên ngọn lửa,
dùng ánh sáng của ngọn đèn để soi cho trong nước mắt
 
Người nhạt
thì cộng thêm bằng gì để mặn?
Người nhạt
nước nhạt theo, ngày nhạt theo, thơ cũng nhạt theo
Vô nghĩa những muối, những đường, những ngọn lửa và nước mắt
những ban mai và những chiều nắng tắt
 
Người nhạt
thì nhân bằng gì để mặn?
 
Tâm thế nhọn như kim
Đâm qua biểu bì sự thật:
- Người nhạt thì chia vào đất cát
!



NGÔ CÔNG TẤN

Im lặng ngày

Một ngày anh không nói
Ngồi thu lu để hiểu sự cô đơn
Sự cô đơn cho anh thấy
Khuôn mặt thật con người.

Anh lạc vào im lặng
Gặp thiện ác trên sân khấu cuộc đời
Anh trở về hiện tại
Gặp nụ cười chót lưỡi đầu môi.

Im lặng và nói
Là vết nhăn trên trán
Dòng kẻ
Cho
Thơ
.



VĨNH NGUYÊN

Hoa móng rồng buổi sớm

Hoa móng rồng buổi sớm
Vầng mây thẹn trắng bay

Hoa móng rồng buổi sớm
Xuôi sáng lật đường cày

Hoa móng rồng buổi sớm
Nhưng nhức đồi cỏ gầy

Hoa móng rồng buổi sớm
Oai phong như nụ hôn

Hoa móng rồng buổi sớm
Hàng thông non nến tắt




PHAN TRUNG THÀNH
 
Ở đâu yên tĩnh 
 
Không yên tĩnh khi đậy xong chút nhớ đã chín
trên đầu lưỡi chưa tan định đề thói quen
dù biết đó là con đường
nhưng chưa đi thì có khi sông
bất an lời hứa 
của đất cát phẳng phiu sóng nước
 
Anh là gã tồi tệ trong đầm
càng cố nhướng càng lún
hố bảo toàn
hốc mắt trong bóng đêm
 
Thỉnh thoảng vang một hồi mèo kêu thân thiết
sự sống đang trì níu trên mái tôn
tiếng sột soạt thơm hơn dạ tiệc 
đánh thức cả những sợi tóc mềm oặt rối tung
 
Đã óc ách tiếng gà
nhịp đồng hồ dộng trên vách
bực bội anh tháo tung cả viên pin 
 
Chuyến đường dài
mà khách lùi lại khi xe khởi hành
không phải là thói quen
đời một lần sao gọi là thói quen
!



LÊ HƯNG TIẾN

Ý và nghĩ

nấn ná những vết xám xạm ký ức
cơn bão từ chợ đen
con mắt thơ nhâm nhẩm cuộc người
đỏ chưa lên ngầu

tha thẩn bao nhiêu cái đủ đủ cho thừa
mồ côi lên ngôi thời đại

sáng vào mùa đưng cỏ
con hỏi hỏi con hỏi hết mùa mùa
đòng đòng trổ nhiên hồn
lại thơ thớ khói sương khói

lại sau ngày sau nữa xưa sau
muộn về vó ngựa
mùa chữ khói lựng bên ngôn ngữ
thở vào thơ thơ
.



NHẤT LÂM

Chim biển

Thương chuỗi ngày luân lạc
Em phiêu dạt trời mây
Vọng sóng mòn ghềnh đá
Biển gào thét trắng ngày

Mùa xác xơ biển động
Làng chài buồn gió lay
Hàng dương xanh giận dữ
Bếp lạnh lửa đêm dày

Kiêu hùng loài chim biển
Khát vọng trời cao xanh
Vỗ cánh ngàn sóng dữ
Ngạo nghễ trước thác ghềnh

Thương em thời luân lạc
Dấn thân mòn con tim
Dừng chân trước làng biển
Ước mình có cánh chim
.



CHÂU THU HÀ

Mưa Huế và anh

Về thăm đền đài lăng tẩm
Về đây tựa mạn thuyền rồng
Tóc em mềm thao thiết chảy
Như đêm mưa buồn trên sông

Thương chi cho bằng mưa Huế
Lâm thâm buốt tận tim mình
Xòe ô nụ cười tỏa nắng
Dịu dàng xin tặng riêng anh

Nghe trong lặng yên của phố
Mong manh những sợi tơ trời
Có gì mà như duyên nợ
Buộc hơn một lần chưa thôi

Để rồi ngày mai xa Huế
Cỏ xanh ướt rượt mưa dầm
Vẫn mắt môi người níu giữ
Nhủ lòng hẹn ước tháng năm




NGUYÊN TIÊU

Hát ru tình cũ

Hát ru tình cũ mùa đông
Người đi xa mãi rối lòng tóc tơ
Hát ru tình cũ ơ hờ
Điệu vần thả xuống giấc mơ mãi còn!

Về ngang dốc nhớ chon von
Câu thơ xưa trải lối mòn xanh rêu
Trượt chân ngã dưới bóng chiều
Lời ru rớt xuống cô liêu đổ dài
!...

(SH300/02-14)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.

  • ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi