Thơ Sông Hương 02&03-90

10:37 05/01/2017


Nguyễn Hoa - Lê Văn Ngăn - Y Phương - Thế Dũng

"Giấc ngủ mặt trời" - Tapisserie - Bửu Chỉ 1987

NGUYỄN HOA

Với bông hồng

Qua cửa sổ phòng tôi
bông hồng nở
Tôi muốn hái
tặng em
nhưng, không nỡ
làm trống đi
một chấm đỏ của trời xanh!




LÊ VĂN NGĂN

Về nơi yêu dấu

Quê hương của những mùa đông kéo dài
người ít hiện ra trên các ngã đường im lặng

mái nhà, lửa và áo len
không đủ cho hơi ấm để  sưởi
cần phải có hơi ấm trong đôi mắt người yêu
trong bàn tay người bạn
quê hương đã cho tôi
một trái tim giá rét và nồng nàn

Quê hương của những sự thật, câu hỏi và câu trả lời
hôm nào, tôi đi ngược dòng thời gian
về nơi lác đác những rặng hoa sứ trắng
những thành quách mái ngói sẫm màu
nơi ấy, tôi đập vỡ vài chiếc ngai vàng
và nhận ra ngai vàng làm bằng chất liệu chiến công và
bất nhân
và nhận ra những kẻ bất nhân
thường chết dưới lưỡi gươm hay chiếc máy chém của mình
Quê hương của vô số khuôn mặt đẹp và vô danh
và trang sử ký thì chật chội
không đủ chỗ cho tất cả những điều tốt lành
vì thế, tôi thường đạp xe về cuộc sống bình thường
sống giữa những người bình thường
trong sáng trên các rặng cây
một nền trời không nhiễm bệnh quyền uy địa vị
giờ đây, tuổi trẻ đã qua rồi
nhưng tuổi trẻ còn để lại trong tôi
vài thoáng hương thơm những năm đời còn hai mươi tuổi
hương thơm của hoa phượng hoa muối
và những loài hoa chưa được đặt tên
bao nhiêu năm, những mùi hương ấy đã giúp tôi
rửa sạch lớp bụi xám phủ lên đôi mắt mình
phải, tôi đã thấy những ngọn lửa oán thù
đốt cháy sự sống thành một nắm tro tàn bé nhỏ.




Y PHƯƠNG

Con ốc đồng

Bà ơi
Ai biết trước bát cháo ốc đồng to bà múc cho cháu lần
ấy lại là lần chót

Lần ấy
Lưng bà còng, cái đầu bà chạm đất, mắt bà đục
Bà lê tấm thân nhỏ ra tận cửa
Giơ cả hai cánh tay run rẩy lên đón cháu trông như hai
cọng lá gianh

Cháu của bà còn bé kin kin
Chạy trốn bà nhanh như con sóc

Bà cười
            miệng méo xệch
                        dấn ra hai ngấn nước

Giờ bà đã đi con đường riêng của bà
Về tận miền cực lạc
Đi quá trời xanh
Không cho ai trông thấy
Nhưng hàng năm vào vụ tháng sáu tháng bảy
Những con ốc đồng to vẫn lê tấm thân
Bà về.




THẾ DŨNG

Tưởng nhớ Ônga Bécgôn

"... Và tôi sẽ đi đến bờ vực của đời
Để rồi sẽ tìm đường quay trở lại..."


Năm tháng vẫn khó khăn, vẫn đãi cát tìm vàng
Nhiều người cố cầu may cho số phận
Nhưng Ônga Bécgôn vốn là người kiên nhẫn
Chị kiếm tìm, tìm kiếm mặc dài lâu

Hạnh phúc lẫn tai ương như thể có phép mầu
Rừng Nga cháy ngày Ônga bảy tuổi
Cung điện nổ! Mùa Đông. Lửa bùng từ bóng tối
Thế kỷ bắt đầu xuyên thấu ngực nhà thơ

Tôi nhớ Ônga năm mười bảy mộng mơ...
(Người xa lắc mà tôi thì chưa có)
Khi Êxênhin chết buồn bên cốc vỡ
Ônga hát gì trên sóng nước Nêva ?

Và tôi cũng đã yêu mãnh liệt đến không ngờ !
Trong ánh hỏa châu trên cổ thành Quảng Trị
Tôi xa xót Nguyễn Du như người xưa đẫm lệ
Chị có kịp trở về tưởng niệm Pútskin ?

Và tôi đã đam mê trong tín ngưỡng linh thiêng !
Cánh buồm đỏ... chưa về bao đêm trắng?
Hoa cuối mùa sặc sỡ nhiều lo lắng
Thơ sinh thành bí mật giữa chiêm bao !

Đâu phải một mình tôi, từ ấy - ước ao !
Được vui sống giữa đời không phản trắc
Trái tim tới trái tim - chỉ một đường thẳng tắp
Thẳng tắp đến hãi hùng với kẻ thích quanh co!

Sâu sắc dịu dàng không giấu mọi buồn lo
Đôi mắt của câu thơ bên những bờ vực thẳm
Đời dẫu đổ vỡ nhiều nhưng không hề đứt đoạn
Con người là vô tận đến tương lai
Hạnh phúc có thể rơi - bên bờ vực xa vời
Đường trở lại có thể rồi sẽ hết
Tôi có một Ônga chân thành và quyết liệt
Để giữa ban ngày nhận mặt những ngôi sao !


(TCSH41/02&03-1990)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.