Thơ Nguyễn Đức Tùng

17:04 20/09/2012

Bạn đọc từng biết đến Nguyễn Đức Tùng qua loạt bài “Những kỷ niệm của tôi về văn học miền Nam” nổi tiếng đăng trên Tạp chí Sông Hương các tháng 6,7,đi năm 2009. Tiếp đó, cuốn sách “Thơ đến từ đâu” cũng đã đem lại những cảm thức văn chương mới mẻ trong dòng văn học Việt Nam đương đại. Một số truyện ngắn của anh xuất hiện trên Sông Hương cũng đã để lại những dấu ấn lạ.

Nhà văn Nguyễn Đức Tùng - Ảnh: internet

Nguyễn Đức Tùng là một Bác sĩ hiện sống ở Vancouver - Canada. Anh chữa bệnh, viết nghiên cứu phê bình văn học và làm thơ, viết văn. Thơ anh bên dưới những chiêm nghiệm tinh tế mang phong cách hiện đại, là những dòng chảy đau đáu thời cuộc, suy ngẫm khôn nguôi về cõi người, về cái đã qua rọi xuống cái bây giờ và cả mai sau... Xin giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ của Nguyễn Đức Tùng.
SH



Mẹ

Mẹ đã tám mươi
Người nhỏ lại
Hét lớn bên tai
Mẹ chỉ nghe rì rào gió thổi


Phá vỡ im lặng
Mẹ thu mình lên cây nhãn
Giữa những cái trứng
Của chim họa mi


Khi mẹ đi xa rồi
Mọi người trong nhà vẫn còn lớn tiếng



Mặt trời nguội đi

Mặt trời nguội đi
Trái đất giá lạnh
Loài người văn minh dời đến một nơi xa

Một hành tinh bên kia các thiên hà
Nơi ánh sáng mất hai triệu năm để tới
Các nhà khoa học thế giới
Tìm cách đi xuyên qua lỗ sâu
Như cách các con sâu xuyên qua một trái táo
Táo bạo vượt qua
Giới hạn của tốc độ ánh sáng
Đưa nhân loại đến vùng đất mới
Có không khí và nước


Họ mang đi trước các thiên tài
Các giống lúa
Và các nghệ sĩ ưu tú
Họ mang theo những đứa trẻ ngậm vú mẹ
Những đứa trẻ thông minh
Và cả những đứa chậm chạp
Họ mang đi hết những người già, những người tàn tật
Các nhà tu hành, và các nhà cách mạng
Nhưng họ đành bỏ lại
Các giấy tờ lộn xộn
Những diễn văn hỗn độn
Những hồi ký chiến tranh
Họ đành bỏ lại
Những bức thư tình
Chưa kịp dán tem
Họ đành bỏ lại các phiên tòa lem nhem
Giấy nợ nhà
Bill điện thoại

Họ đành bỏ lại
Bến đò chiều mưa
Nụ hôn bên bờ liễu
Họ đành bỏ lại
Chỗ ngồi của anh và em
Dưới cội cam vàng.



Hãy để chim chóc làm đầy bầu trời

                                                Tặng Du Tử Lê

hãy để chim chóc làm đầy bầu trời
hãy để muối
làm đầy môi chúng ta hãy để bông hoa
đứng thẳng lên
khi trên màn hình
một thường dân bị bắn hạ
hãy để chiều rơi
xuống mí mắt mệt mỏi, hãy hỏi
đường ở rễ cây, hãy để mưa bôi
xóa khuôn mặt anh ngoài cửa kính
hãy để kẻ tử tù
trốn thoát qua mái nhà hãy để hắn
nhảy xuống một sân ga, khi tàu vừa chuyển bánh
hãy săn đuổi cái chết như phóng viên nhiếp ảnh
hãy để mắt em hiu quạnh trong
mắt anh, hãy để ong bay
trên váy hoa góa bụa
hãy để bữa ăn sáng dọn ra như bữa
ăn cuối cùng của bạn
hãy để những gì bạn để lại phía sau là tất cả
những gì bạn có thể mang theo
được, hãy bay đi thật xa
nếu chúng ta còn nhớ đường về
hãy chờ anh
ở chỗ dòng sông nước chảy chậm
hãy để chiếc lá
chẻ đôi
sự giận dữ của chúng ta
trước cuộc đời
hung
hãn
này
hãy
gõ cửa
chiều mưa
như người láng giềng
để mất
chiếc bật lửa.


(SH283/09-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.

  • ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi