Thơ Dự Thi 6-2002

09:22 22/08/2008
Tôn Nữ Ngọc Hoa - Nguyễn Đức Đát - Võ Khánh Cừ - Ngân Vịnh

TÔN NỮ NGỌC HOA

Quên

Quên mà sống
Tôi nhủ lòng như thế
Những âu lo thường nhật kiếp người
Những giận dỗi tưởng chừng vô cớ
Những trái ngang nghịch lý cuộc đời

Cả kỷ niệm nơi náu nương dễ chịu
Vỗ về trái tim xua nỗi cô đơn
Cả ai nữa vừa mơ hồ vừa thực
Thoắt xa xôi đã lại rất gần

Và tôi quên như đã quên mình
Với bận bịu cố tình ngày tháng
Kiêu hãnh khóc giấu sâu nước mắt
Kiêu hãnh cười khoe môi thắm màu hoa
Kiêu hãnh với lẻ đơn cháy bỏng khát khao

Rốt cùng khi đối diện đêm dài
Đành bất lực thú nhận mình thua cuộc
Mềm như cỏ trong ngày rét mướt
Tôi buông tôi cho nhớ dày vò

Một mình

Chợt thèm một khoảnh khắc thôi
Chỉ tôi với một mình tôi - một mình
Giữa thanh thiên giữa mông mênh
Nơi con sông xoã tóc xanh mơ màng.

Chợt thèm một lúc lang thang
Giữa hoang vu buổi chiều vàng
dần vơi
Chỉ tôi chỉ với tôi thôi
Đừng ai sánh bước, đừng người
song song


Lâu rồi lẫn giữa dòng đông
Khóc không đành khóc cười không thành cười
Chuốc về chi cái lẻ loi
Tôi quên tôi giữa chợ đời xôn xao

Đất dưới thấp trời trên cao
Với người ở giữa ai nào  hiểu ai
Gánh buồn nặng trĩu hai vai
Chút xuân tươi đã tàn phai bao giờ

Giữa đông mà thấy bơ vơ
Người bên mà thấy ngẩn ngơ
                                             bên người
Chợt thèm một khoảnh khắc thôi
Chỉ tôi với một mình tôi - một mình.


Nửa và cả
                  (Chân dung tự hoạ)

Một nửa là bé con
Thèm vui chơi dành dỗ
Một nửa là thiếu phụ
Cam chịu trong lặng thầm

Nửa nông nổi giận hờn
Nửa đằm sâu thương nhớ
Phơi trải mà giấu che
Hững hờ mà bỏng cháy

Một nửa trời mùa hạ
Xanh đến hết mình xanh
Một nửa đất mùa đông
Nhặt gom từng hạt nắng

Một nửa này chống chếnh
Nỗi thăm thẳm đường xa
Một nửa kia bướng bỉnh
Với lẻ đơn cách chia

Một nửa và một nửa
Là cả mà vẫn hai



NGUYỄN ĐỨC ĐÁT

Đêm liêu trai

Bên song
Tiếng lá thì thào.

Gió
Khe khẽ gọi
Lao xao cửa buồng.
Vườn đêm bàng bạc trăng suông.
Sương khuya ướt đẫm
Thoảng hương hoa lài.
Hồn hoa
Như chợt thở dài.
Ngoài hiên
Thấp thoáng dáng ai
Nghiêng mình.
Sụt sùi
Than kiếp hồ tinh.
Tôi phiêu diêu
                        Chốn cõi tình
                                    Liêu trai.

VÕ KHÁNH CỪ

Gặp lại

Vẫn là biếc cỏ bờ đê
Trời xanh như thuở... chưa về chốn đây
Chào nhau - khuôn mặt như say
Trong bàn tay ấm, chai dày với chai.

Áo xưa tím một thời trai
Bây giờ sương nắng đã phai sắc màu.

Tóc xưa óng mượt vì nhau
Bây giờ bối chặt biết nhàu hay không?

Xao chi một sắc ngô đồng
Ai hay năm tháng xác vòng ruột cây

Xa nhau mà nợ chưa đầy
Như năm chưa trọn một ngày... cuối năm
12/2001

NGÂN VỊNH

Một chiều đông chị tôi

Nghĩa trang bên mé sông Bồ
chị tôi ngồi trước nấm mồ anh tôi
chiều đông sương khói bồi hồi
lòng hun nắng ấm chân đồi trắng lau

Anh nằm im có biết đâu
trong đôi mắt chị chôn sâu giọt buồn
đường xa dặm núi nẻo nguồn
nỗi đau năm tháng không tuồn tuột trôi

Chiến tranh qua đã lâu rồi
vai gầy tóc rụng đầy vơi mỏi mòn
chẳng mơ hoa lạ trời tròn
chị im lặng đến với con sông Bồ

Cô đơn chia bến xẻ bờ
trái tim trỗi thức đợi chờ ngày xưa
quên đi đường gió trời mưa
bần thần cỏ rối lau thưa cuộc đời

Chị tôi ngồi với anh tôi
có gì níu bước nẻo trời cánh chim.
12-3-2002

Tháng hai

Tháng hai
những vệt chân rải lên ngọn cỏ
qua nơi đây đến được bến bờ
nửa dòng sông sương
nửa dòng sông gió
nửa mái chèo buông
nửa bóng con đò

Những lá khô mùa đông để lại
không ai nâng lên bàn tay
lưới tơ nhện hững hờ giăng mắc
chút tình yêu xa xót gót giày

Tháng hai
cơn mưa phùn vơi đi áy náy
đêm ngõ rêu bầy đom đóm mộng du
giọt nước mắt của tôi em nhìn thấy
im lìm khởi đầu cho một giấc mơ.
10-2-2002
(nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thanh Thảo - Phạm Ngọc Cảnh - Nguyễn Thị Hồng - Tạ Hữu Yên - Bảo Định Giang

  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.