Thi sĩ Phùng Quán về đất mẹ

15:41 28/01/2011
NGÔ MINH Sau ba tháng kêu gọi, hơn 250 văn nghệ sĩ, trí thức và những người Việt mến mộ Phùng Quán ở Việt Nam, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Ba Lan, Úc, Thụy Sĩ v.v, đã nhiệt tình góp cát đá xây lăng mộ nhà thơ Phùng Quán - bà Vũ Bội Trâm ở Thủy Dương, Huế.
Đầu tháng 1 năm 2011, lăng mộ đã được xây dựng xong tại khu nghĩa trang Ngoại Viên Hưng, phía Tây Thủy Dương cách Huế 6 km về phía nam. Trong khu lăng có khắc phần cuối bài thơ Lời mẹ dặn, bút tích bài thơ Thơ đề trên thơ: Có những phút ngã lòng. Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy của Phùng Quán, câu đối chữ Hán của hàn sĩ Hà Sĩ Phu viếng Phùng Quán khi nhà thơ qua đời: Trùng Phùng lưu cốt cách/ Nhất Quán tận can trường. Có bàn ghế để anh em ngồi cùng nâng chén với hương hồn thi sĩ.v.v.. Khu lăng mộ được xây cất không cầu kỳ, thật sự là một địa chỉ văn hoá tâm linh để những người ngưỡng mộ Phùng Quán trong và ngoài nước đến Huế ghé về viếng thăm.

Lễ cải táng, an táng Nhà thơ Phùng Quán và cô giáo Vũ Thị Bội Trâm


Lăng nhà thơ Phùng Quán và bà Vũ Bội Trâm ở vị trí rất thơ mộng. Mộ quay về hướng Tây có núi xa, có đồi thông gần, có hồ nước xanh trong thăm thẳm. Theo thuật phong thuỷ thì đây là nơi đại cát, hợp với người có nhân cách lớn. Người viếng mộ Phùng Quán có thể đi ô tô đến tận nơi. Từ Huế, đi 3 cây số QL1A về phía Nam, đến Nghĩa trang liệt sĩ Thủy Dương rẽ phải theo con đường nhựa thêm 3 cây số nữa là đến nơi.

Phùng Quán là nhà thơ nổi tiếng để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử văn học Việt Nam. Đời anh có quá nhiều nỗi gian truân, nhưng anh vẫn giữ vững bản lĩnh một nhà văn chiến sĩ. Nghĩ về Phùng Quán trong tôi luôn hiện lên một chân dung cốt cách nghĩa khí một chiến sĩ Vệ Quốc đoàn cương trực, quyết liệt, một thi sĩ tài hoa ngất ngưởng và một nhân cách cao cả. Phùng Quán đã để lại hàng chục tác phẩm được nhiều thế hệ bạn đọc mến mộ, được tái bản hàng chục lần. Trong đó những bài thơ Lời mẹ dặn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe, tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội, tạp văn Ba phút sự thật... là những tác phẩm để đời. Phùng Quán được tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2007 là ghi nhận của Tổ Quốc và nhân dân đối với tài năng và tâm huyết của anh. Phùng Quán đã phải vượt qua vô vàn đắng cay suốt 30 năm trời bị “treo bút”, anh vẫn viết “ ngay thẳng tột cùng/ sự ngay thẳng thuỷ chung/ của mỗi dòng chữ viết”, giữ được sự đam mê văn chương cho đến ngày cuối đời. Phùng Quán đã thể hiện tuyệt đối chính xác lý tưởng cao cả trong thái độ tôn vinh các yếu tố “chân thật”, “trung thực” trong bài thơ nổi tiếng “Lời mẹ dặn”:

Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu

Bài thơ Lời mẹ dặn được độc giả bình chọn là một trong 100 bài thơ Việt hay nhất thế kỷ XX. Bài thơ là lời tuyên ngôn đanh thép của những nhà văn đi với nhân dân, viết vì nhân dân. Lời mẹ dặn có thể đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học, để các em lớn lên trở thành người chân thực, không biết dối trá, xu nịnh.          

Phùng Quán trốn mẹ đi theo đội trinh sát thiếu niên của Trung Đoàn 101 Trần Cao Vân ở Huế năm 14 tuổi, cho đến khi qua đời ở tuổi 64 (1995), anh xa quê tới 50 năm. 16 năm từ sau khi bị trọng bệnh qua đời, vì còn vợ con, nên mộ Phùng Quán vẫn an tọa ở nghĩa trang quê vợ là làng Kiều Mai, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Như vậy, Phùng Quán đã xa quê tới 66 năm. Sinh thời anh luôn khao khát được trở về quê hương. Anh mơ sở hữu một chiếc đò nhỏ để trong những ngày cuối đời, được đêm ngày câu cá uống rượu đọc thơ với bạn bè dọc sông Hương. Nhưng ước nguyện của anh đã không thực hiện được. Năm 1994, trước khi qua đời một năm, về quê xây mộ ba mẹ (là ông Phùng Nguyện và bà Tôn Nữ Thị Tứ) ở trên vùng đồi ở phía Tây Thuỷ Dương, nhà thơ đã tự đắp cho mình cái mộ gió cạnh mộ ba mẹ. Anh bảo với Phùng Quý Giáp, người em họ Phùng: Đây là chỗ mình nằm! Cái mộ gió ấy đến nay vẫn còn. Trong những ngày cuối đời, nhà thơ cũng bày tỏ nguyện vọng được cùng vợ về nằm giữa lòng đất mẹ Thủy Dương. Sau khi chị Vũ Thị Bội Trâm, người vợ sắt son chung thuỷ của nhà thơ Phùng Quán tạ thế (15-8-2010), nguyện vọng ‘về quê mẹ’ của nhà thơ được con gái Phùng Đỗ Quyên thực hiện rất sốt sắng. Bình tro hài cốt bà Vũ Bội Trâm hiện đang gửi ở Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội, chờ ngày cùng về quê với chồng. Cháu Phùng Đỗ Quyên, con gái nhà thơ đã thực hiện nhiều bước để đưa bố mẹ về quê nội. Đầu tiên là xin ý kiến và được hai họ, nhất là họ Vũ ở Hà Nội đồng ý. Tiếp theo, ngày 11/9/2010, họ Phùng Thuỷ Dương cùng cháu Phùng Đỗ Quyên đã tổ chức Lễ cầu siêu và An vị hương linh vợ chồng Phùng Quán - Bội Trâm tại nhà thờ gia đình. Sau đó mới đến việc xin đất, kêu gọi góp cát đá và xây mộ. Vì khu vực nghĩa trang mà Phùng Quán làm cái mộ gió bên cạnh mộ ba mẹ nằm trong diện quy hoạch giải toả, nên UBND phường Thuỷ Dương đã cấp đất an táng tại Khu nghĩa trang Ngoại Viên Hưng.


Cảm động nhất là việc góp cát đá xây lăng mộ Phùng Quán - Bội Trâm. Trong Lễ an vị hương linh vợ chồng nhà thơ Phùng Quán ngày 11/9/2010, tôi đã xin phép ông Trưởng họ Phùng cho anh em văn nghệ sĩ được góp một phần kinh phí xây lăng mộ Phùng Quán - Bội Trâm khi về đất mẹ. Ông trưởng họ Phùng đã hoan nghênh ý kiến của tôi. Ông bảo:” Ồ, Phùng Quán là của họ Phùng, của Thủy Dương, nhưng Phùng Quán cũng là nhân vật của Thừa Thiên Huế, của Việt Nam”. Tôi nghĩ, muốn góp phải có ít nhất vài chục triệu. Thế là tôi nghĩ ngay đến mạng Internet. Và sau hai tháng mọi người tự nguyện góp “cát đá”, số “cát đá” thu được gấp gần chục lần mong ước của tôi. Điều tôi vô cùng thấm thía là: Phùng Quán, sau 16 năm rời cõi tạm, vẫn sống mãnh liệt trong lòng bạn đọc người Việt từ khắp nơi trên thế giới!

Xin kể vài chuyện cảm động trong hai tháng góp cát đá để bạn đọc hiểu thêm cái thương hiệu Phùng Quán trong lòng độc giả như thế nào. Nhà thơ Võ Quê ở Huế, vợ là chị Tiểu Kiều, đau thận phải chạy thận nhân tạo rất tốn kém suốt năm trời (chị Tiểu Kiều đã qua đời hôm 6/12/2010), thế mà anh cũng góp tiền xây lăng Phùng Quán. Thật cảm động. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm một chỗ, bảo tôi: “Cho mình góp với”. Tôi bảo Lâm Mỹ Dạ đã góp rồi. Thế mà từ đó mỗi lần tôi đến nhà, anh đều hỏi: “Góp cát đá xây lăng Phùng Quán đến mô rồi?”. Ở Huế có anh Hoàng Trọng Định, một người làm thơ, bị bọn xấu tạt a-xít đến cong queo tay chân, hàng ngày người nhà phải nuôi, thế mà Định vẫn tìm đến góp “cho bác Quán” 50 ngàn đồng. Tôi cầm đồng tiền mà ứa nước mắt. Nhà văn Cao Duy Thảo ở Nhà Trang, lương hưu ba cọc ba đồng vẫn trích 1/3 lương tháng 10 để góp cát đá. Một người phụ nữ Huế ở Mỹ nhờ đứa cháu ở Huế tìm đến nhà tôi gửi 2 triệu đồng để tỏ tấm lòng đối với nhà văn Phùng Quán, nhưng không nói tên thật, chỉ đề nghị ghi trong danh sách là Hoa Bèo. Nhà văn Nguyễn Gia Nùng không chỉ gửi tiền mà còn viết cả lá thư dài rất tâm đắc động viên việc làm tình nghĩa này. Anh Tạ Duy Hinh, chỉ mấy ngày đầu tháng 10 đã hô hào bạn bè góp được 15 triệu, ngày 7/10/2010 đã gửi tiền vào TK. Tôi không biết anh ấy ở Hà Nội hay Sài Gòn, thậm chí anh chẳng điện thoại bao giờ. Nhà văn Nguyễn Quang Lập và nhà báo Huy Đức thì quá vất vả. Tiền chuyển vào tài khoản nhưng không hiện tên lên, chỉ hiện số tiền 2,5 triệu. Điện thoại qua về liên tục. Tôi ra ngân hàng sao cả danh sách gửi tiền, bắt họ ký đóng dấu, gửi thư EMS vào để Lập đến ngân hàng hỏi. Đến năm bảy ngày người ta mới phát hiện ra là gửi tiền không thuộc hệ thống cùng ngân hàng thì ít khi hiện tên và nội dung gửi. Thế là phải nhờ mấy o nhân viên BIDV Huế ở Bến Ngự lên BIDV trung tâm tra cứu, mới tìm ra. Chị Khánh Trâm ở Phân viện VHNT Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh cũng vậy. Tìm không ra tên. Chị phải gửi cả bản phô tô phiếu gửi tiền ra để đi tra cứu. Thế mà hai tuần sau chị lại gửi tiền góp cát đá một lần nữa. Chị điện cho tôi:” Đây là tiền góp của anh Trần Hải, chồng em!”. Vợ chồng anh Tôn Gia Khai - chị Minh, chỗ quen biết của vợ tôi ở Ba Lan đọc mạng biết có cuộc góp cát đá, cũng nhiệt tình điện đi điện lại nhiều lần mới biết được địa chỉ để gửi tiền qua dịch vụ Western Union. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã góp cát đá trong cuộc họp BCH Hội Nhà văn VN khóa VIII, còn gửi riêng 5 triệu nữa với tin nhắn: “Với Phùng Quán bao nhiêu cũng không đủ”. Cô gái trẻ Lê Xuân Quỳnh ở Hà Nội, một người yêu thơ, sưu tập nhiều thơ hay, thơ thiền, đã rất sốt sắng với việc góp cát đá. Sốt sắng đến nỗi bận đi công tác ở Quảng Ninh cũng ra phố Hạ Long tìm ngân hàng để gửi tiền. Có cô giáo trẻ ở Quảng Trị có cái tên rất đẹp, gửi thư thường cho tôi, trong thư bỏ một triệu đồng bọc trong tờ giấy trắng ghi mấy chữ: “Đề nghị chú lên danh sách thì ghi “Cô giáo Quảng Trị mến mộ Phùng Quán, đừng ghi tên thật”. Anh Hà Dương Tường ở Pháp cũng email cho tôi anh sẽ vận động anh em nhóm thân hữu báo Diễn Đàn ở Pháp, Mỹ, Thụy Sĩ “góp cát đá” vì rất nhiều người mến mộ Phùng Quán. Có nhiều người không muốn ghi danh tính, coi như người đọc vô danh mến mộ Phùng Quán. Nhóm “đồng môn” với chị Bội Trâm ở Sài Gòn gồm 7 người như anh Lê Văn Bài, chị Ngô Thị Hà Châu, Nguyễn Thị Dư Khánh (em gái nhà văn Nguyễn Khắc Phê)... dự kiến gửi tiền từ tháng trước, nhưng vì anh Lê Văn Bài ốm đi viện cấp cứu. Thế mà tỉnh lại anh Bài liền nhắc gửi cát đá xây lăng mộ Phùng Quán. Người góp số tiền cao nhất là anh Lê Văn Hải, người Quảng Trị, sống ở Sài Gòn. Năm 1992, hồi Lê văn Hải làm ở Công ty mì Vifon anh tuyên bố sẽ cung cấp mì ăn liền để Phùng Quán ăn đến cuối đời. Thế là cứ một tuần lại có người ở đại lý mì Vifon ở Hà Nội chở một thùng mì ăn liền đến “chòi ngắm sóng” của Phùng Quán. Trong danh sách góp cát đá có nhiều người nổi tiếng như NSND-đạo diễn Đặng Nhật Minh, đạo diễn Vinh Sơn người làm phim Tuổi thơ dữ dội, hoặc con của những người nổi tiếng như các con cụ Tôn Quang Phiệt, con cụ Trần Duy Hưng…

Đúng 11 giờ ngày 9 tháng 11 năm 2011, Lễ cải táng, an táng Nhà thơ Phùng Quán và cô giáo Vũ Thị Bội Trâm đã được tổ chức đúng nghi thức truyền thống và nghiêm trang tại khu nghĩa trang Ngoại Viên Hưng. Đông đảo anh em văn nghệ sĩ, trí thức, người hâm mộ Phùng Quán từ Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế đã về dự. Bây giờ thì mộ hai vợ chồng nhà thơ đã thỏa nguyện nằm bên nhau đời đời trên đất mẹ Thủy Dương. Viết đế đây tôi bỗng nhớ trong tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, đoạn kết thúc, chú bé chiến sĩ thiếu nhi trinh sát Trung đoàn Trần Cao Vân tên là Mừng vĩnh biệt người mẹ (tổ trưởng dân công anh hùng) hấp hối: “Mừng nhào xuống dáy huyệt, ôm chặt xác mẹ, nức nở kêu gào: “Con không phải là Việt gian. Con là Vệ Quốc Đoàn mạ ơi!”. Anh Phùng Quán ơi, trong lòng người đọc Việt Nam anh mãi mãi là một nhà văn cách mạng.

N.M
(264/2-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)

  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).