Theo dòng “Nhật ký người xem đồng hồ” của Nguyễn Quang Thiều

14:53 31/10/2023

HOÀNG KIM NGỌC

“Nhật ký người xem đồng hồ” là tên tập thơ mới của Nguyễn Quang Thiều, gồm 85 bài thơ chia làm 2 phần: Nhật ký người xem đồng hồ (63 bài) và Bản tự khai của một số đồ vật trong phòng (22 bài).

Những bài thơ - nhật ký ấy đã trở thành nhật ký - thơ bởi trong cái TÔI, riêng tư, cá nhân ấy có cái TA; bao quát nhiều vấn đề của hiện thực xã hội quốc gia và quốc tế, đa dạng các cung bậc cảm xúc. Ông có khả năng thơ hóa tất cả những sự việc, sự kiện, đồ vật bình thường nhất và có khả năng làm mới những cái quen thuộc nhất. Gốc rễ của những bài thơ duy tình mang căn tính Việt của ông đã chạm được vào mỹ cảm của người đọc bằng lối diễn đạt hiện đại, chỉ dẫn liên tưởng đa nghĩa mang màu sắc triết lý. Mỗi độc giả sẽ dựa vào kiến thức nền của mình, dựa vào khả năng tiếp nhận liên văn bản, cùng đồng sáng tạo với tác giả để tự rút ra cái ý nghĩa hàm ngôn ẩn chứa dưới lớp vỏ ngôn từ của mỗi bài thơ.

1. Mỗi mốc thời gian lưu giữ một “sự kiện tâm hồn”

Cảm thức thời gian đã in đậm dấu ấn trong tập thơ “Nhật ký người xem đồng hồ”. Thật đặc biệt khi có tới 24 nhan đề bài thơ trực tiếp nhắc đến thời gian như một tín hiệu nghệ thuật. Đó không chỉ là những mốc mặc định như ngày, sáng, trưa, chiều, đêm… (như: “Sáng chủ nhật”, “Giấc mộng trưa”, “Tin nhắn chiều 29.9.2019”, “Đêm tháng Bảy”…) mà còn là những mốc thời gian cụ thể đến từng giờ từng phút (như: “Lúc 4:11’”, “0 giờ 17 phút”, “10:13’”…); thậm chí chi li đến từng giây (như bài: 10:3’10’’)...

Mỗi dấu mốc thời gian ấy lại có một bài thơ ra đời như những dòng nhật ký của tâm hồn. Ông đã ghi lại được những cảm xúc, suy nghĩ và đặt ra được những vấn đề có ý nghĩa xã hội từ những cái tưởng như rất bình thường, nhỏ nhặt. Có thể dẫn ra một số ví dụ sau:

Bài “Một cái cây bê tông” cũng khởi tứ từ một việc đơn giản (nhà thơ đọc được cái “tus” trên facebook của người bạn văn) nhưng nội dung đặt ra thì không đơn giản. Đó là sự cảnh báo về quy hoạch thành phố, thiếu cây xanh và rừng bê tông đang góp phần hủy diệt môi trường sống của các loài sinh vật, côn trùng bé nhỏ. Bài “Đưa cháu về quê nội” (ngày 9/5/2019) kể về một hành động bình thường của một người ông nhưng lại khiến người đọc ngẫm nghĩ về vấn đề giáo dục trẻ em tình yêu quê hương nguồn cội. Bài thơ: “Bản tin ngày” (tr.7) ra đời chỉ từ một cái tin thời sự nhưng đã đề cập đến vấn đề kì thị màu da, phân biệt chủng tộc. Bài “Một sáng chủ nhật” cũng được nảy tứ chỉ từ một sự việc thiết nghĩ chẳng có gì phải để tâm: “Quả bóng bay hình cá/ Tuột khỏi tay đứa trẻ/ Bay vào phòng tôi” rồi “Nó chập chờn bơi/ Mũi rúc vào giá sách”. Nhưng bằng cái nhìn siêu thực, nhà thơ hình dung: “Tôi thấy nó lôi từ đó ra những con bọ/ Không/ Đó là những con chữ/ Và nuốt chửng từng con”. Bài thơ nếu dừng ở đấy thì chẳng có gì đáng nói nếu như hai câu kết không gợi ra một liên tưởng mới, đẩy lên thành một vấn đề lớn đáng suy ngẫm: “Giờ những cuốn sách đã được dọn sạch/ Để bắt chúng ta viết lại”. Sao lại “dọn sạch” và “viết lại”? Phải chăng, những con chữ đã viết với tư duy cũ, cách nhìn nhận lỗi thời, ấu trĩ hoặc có gì đó chưa minh bạch có tác hại như những con bọ đã đến lúc phải được “viết lại”.

Bài “Đứa bé đọc bản tuyên ngôn” một lần nữa lại khẳng định Nguyễn Quang Thiều là một công dân đầy trách nhiệm khi ông không quẩn quanh với những cảm xúc cá nhân mà đã quan tâm đến vấn đề nhân loại. Theo sát những vấn đề thời sự, nhà thơ hay tin: “Đêm qua nhân loại đối mặt với bầy quỷ nhảy múa cùng súng đạn”, chúng nhằm vào những người Hazara vô tội - một dân tộc bản địa bị phân biệt đối xử chỉ vì không thuộc dòng Hồi giáo Suni với đội quân Taliban ở Afghanistan. Nguyễn Quang Thiều có cảm giác nghe được những tiếng thét bất lực của họ dội về từ đất nước Nam Á này. Ông đã đau nỗi đau bị truy sát của dân tộc Hazara, đã đau nỗi đau chung của nhân loại tiến bộ. Nhưng nhà thơ vẫn tin rằng, dân tộc này không thể bị diệt chủng bởi: “Và đêm qua một đứa bé Hazara được sinh ra/ Để đọc bản Tuyên ngôn bất diệt của dân tộc mình thêm một lần nữa” (tr.81). Bài “Giờ G” (được chú thích viết lúc 8:26 phút ngày 07/10/2021) chính là một dấu mốc lịch sử, phản ánh hiện thực thời đại, ghi lại nỗi đau tinh thần của người dân trong cái ngày đau thương, đáng sợ trong trận chiến chống Covid. Đó là thời khắc mà hàng vạn người dân kéo nhau về quê để chạy trốn dịch Covid với những bộ dạng lam lũ và thống khổ: “Đấy là giờ trên mặt đất/ Những kiếp người trôi dạt/ Trên những nẻo đường/ Với một tài sản duy nhất mang theo/ Đói, khát và hoảng sợ”.

Thơ Nguyễn Quang Thiều đa dạng các trạng thái tình cảm của các mối quan hệ: có thơ cho gia đình (cháu nội, cháu ngoại, cho cha mẹ…); có thơ đề tặng bạn bè văn nghệ sĩ; có thơ cho tình yêu, cho đồng bào, cho nhân loại… và đều khởi tứ từ cái tình chân thật. Ngày cháu ngoại ra đời ở bên kia trái đất, bằng mối liên hệ ruột thịt, thần giao cách cảm, nhà thơ đã thấy: “Ngày Kya ra đời, tôi nghe tiếng khóc trẻ sơ sinh/ Nhưng không đấy là giọng Kya/ Đang vang lên đọc tiếp bản tuyên ngôn về sự sống”. Từ cảm xúc riêng tư đó, ông đã đề cập đến vấn đề quyền trẻ em. Mỗi đứa trẻ ra đời cần có một “bản tuyên ngôn về sự sống”. Cuối bài thơ, một câu hỏi được đặt ra: chúng ta đang làm gì và sẽ làm gì để trẻ em hạnh phúc. Dưới con mắt nhà thơ, vẻ đẹp thánh thiện của trẻ thơ được nâng lên ngang tầm với vẻ đẹp của vũ trụ: “Khi đôi mắt Kya mở ra/ Bầu trời ngập tràn ánh sáng/ Khi giọng nói Kya vang lên/ Trong các vòm cây chim hót/ Khi bàn tay Kya xòe ra/ Những cánh đồng hoa bừng nở/ Và khi Kya ngậm bầu vú mẹ/ Có những dòng sông ngủ quên trong đất/ Giờ thức dậy và tuôn chảy”.

Bài thơ “Phạm Long Quận lúc 4:33’” tuy cũng là một sự kiện của mối quan hệ cá nhân (đưa tro cốt người bạn là họa sĩ, dịch giả, một người tài hoa, có đôi chút lập dị về quê ở Tứ Kỳ, Hải Dương) nhưng qua đó, nhà thơ trình bày cho người đọc một cái nhìn tích cực về sự chết theo tinh thần Phật giáo. Chết không phải là hết, chết là bắt đầu một kiếp sống khác. Cho nên nhà thơ đã khuyên người thân, bạn bè đừng than khóc tiếc thương, hãy để Quận ra đi thanh thản vì anh đã hoàn thành sứ mệnh của mình và bây giờ mới là lúc anh bắt đầu chuyển nghiệp. Quận có thể khổ và nghèo theo quan niệm thông thường nhưng nhà thơ thấy bạn mình không khổ, không nghèo “Bởi giấc mơ của Quận/ Lớn hơn miền khổ đau” và cái nhìn đời sống của Quận rất tích cực. Là người hiểu bạn, Nguyễn Quang Thiều đã miêu tả tư thế “về với đất” của Phạm Long Quận - họa sĩ thuộc trường phái siêu thực - cũng bằng những hình ảnh siêu thực lãng mạn: “Hai bàn tay đưa lên/ Hai cành cây đang mọc/ Đôi mắt Quận khép lại/ Gương mặt thì mở ra/ Hoa đang nở trái mùa/ Trên cánh đồng tóc Quận”.

Bài thơ “Con chuột” (có lời đề từ: “Tặng Nguyễn Thị Thu Huệ”) cũng có cách diễn đạt siêu thực như sau: “Nàng đang nói/ Những bông hoa in trên áo nàng/ Từ từ nở/ Và con chim xanh đậu trên cành ở vai áo phải/ Đập cánh hót vang và chuyển sang cành ở vai áo trái/ Nàng đang nói/ Những chiếc cúc đỏ áo nàng/ Rung rinh chùm quả/ Mùi thơm của mĩ phẩm/ Hay hương quả chín/ Một con chuột bò về phía chùm quả/ Nó không đến từ vòm lá/ trên chiếc áo của nàng”. Như vậy, khởi thủy của bài thơ có thể đến từ ấn tượng cụ thể về một nữ đồng nghiệp (sự duyên dáng sinh động khi “nàng đang nói”, sự độc lạ về trang phục và mùi hương quyến rũ của nàng). Nhưng, chiều kích của bài thơ không chỉ dừng lại ở việc tụng ca người bạn thân quý, mà còn để nói về một vấn đề khác có ý nghĩa lớn lao hơn. Bởi vì, bài thơ đã gợi dẫn người đọc liên tưởng tới truyện cổ tích “Một cuộc thi tài” của Nhật Bản. Nghệ thuật thật hơn cả sự thật thì mới là nghệ thuật. Con chuột đã tưởng nhầm những hình thêu chim muông hoa lá trên vai áo và những cái cúc áo đỏ kia là một vườn hoa quả có thật và đang dậy mật thơm hương. Vì lẽ đó, đây đích thị là bài thơ ngợi ca sức mạnh của nghệ thuật.

Bên cạnh 63 bài thơ của Phần 1 thì ở Phần hai: Bản tự khai của một số đồ vật trong phòng có 22 bài thơ ngắn (độ dài chỉ từ 1 đến 6 câu). Thật thú vị khi 21 đồ vật cụ thể trong ngôi nhà (như: Đèn dầu cũ, Ấm pha trà, Giá sách, Ảnh cũ…) của tác giả đã trực tiếp trở thành 21 nhan đề (trừ cái gọi là Đồ chơi của cháu nội là không phải “đồ vật” theo nghĩa đen). Như vậy, có thể thấy với Nguyễn Quang Thiều thì bất cứ cái gì, điều gì cũng có thể trở thành thơ, miễn là chúng được nhìn bằng đôi mắt thơ, bằng tâm hồn thơ và bằng trái tim nồng ấm, cực kì nhạy cảm của nhà thơ. Hầu hết các đồ vật ấy đều trở thành những sinh thể sống, đều tự cất lên tiếng nói của mình bằng chủ thể “tôi”, bằng sự nhân hóa.

Cái thùng rác cũng trở thành thơ bởi nó không còn là sự vật mang nghĩa đen, nó đã được nhân hóa và vì vậy nó có nghĩa ẩn dụ: “Tên tôi là sự nhơ nhớp/ Để làm sạch những nhơ nhớp” (113). Một cái đồng hồ Odo treo tường chết cũng thành thơ với cách diễn đạt thật lạ nhưng thật chính xác: “12 giờ 01 phút/ Tôi treo xác tôi lên tường/ Ra đi” (108)…

Ông đã cấp cho những đồ vật quen thuộc cái nhìn mới, ý nghĩa mới bởi trường liên tưởng rộng. Chẳng hạn, bài thơ “Bình gốm” chỉ có 5 câu nhưng người đọc thấy được sức sống trường tồn của văn hóa truyền thống. Ba câu đầu là: “Nước vẫn chảy trong đó/ Cây vẫn mọc lên/ Lửa không bao giờ tắt” có vẻ chả liên quan gì đến việc miêu tả cái bình làm bằng gốm, trừ hai câu thơ cuối có hai từ liên quan đến nhan đề là: “thợ gốm” và “chiếc bình”: “Giọng nói người thợ gốm/ Chứa đầy khoảng trống chiếc bình”. Thế nhưng chính hai câu này đã vén mở lớp nghĩa hàm ngôn: cái bình gốm không chỉ là cái bình làm bằng gốm, mà nó tượng trưng cho những giá trị văn hóa vùng châu thổ sông Hồng tồn tại ở trong nó, không bao giờ chết bởi “nước vẫn chảy”, “cây vẫn mọc”, “lửa không tắt” và nó “chứa đầy” dấu ấn tài hoa của người thợ chế tác ra nó. Bài thơ này còn chỉ dẫn chúng ta liên tưởng tới một bài thơ dài của ông có tên là “Chiếc bình gốm” (in trong tập “Châu thổ”, Nxb. Hội Nhà văn, 2010) mà ở đó, những giá trị văn hóa ấy, quá trình chế tác cái đẹp ấy đã được nhà thơ trình hiện rất rõ ràng như một nghi lễ tôn giáo thiêng liêng.

Thơ ông không những thể hiện được trách nhiệm của mình với gia đình, dòng họ mà còn với đồng bào, với nhân loại trong tư cách một công dân toàn cầu.

2. Một phong cách định hình vẫn tiếp tục chuyển động

Thơ Nguyễn Quang Thiều bên cạnh bút pháp, thi ảnh, ngôn ngữ, biểu tượng… đã định hình phong cách thì vẫn đang tiếp tục chuyển động trong tập thơ mới: “Nhật ký người xem đồng hồ”. Ở tập thơ này không còn những câu dài loằng ngoằng, “rườm lời bởi quá nhiều định ngữ nghệ thuật, cảm xúc nhiều khi chưa được tiết chế làm tổn hại đến những bí mật cần giấu kín để kích thích sự khêu gợi sâu xa…”1 nữa. Mà thay vào đó là những câu thơ, bài thơ ngắn gọn (thậm chí có bài chỉ có một câu) nhưng lại khiến người đọc ngẫm nghĩ suy tư, khơi gợi liên tưởng, giàu tính triết lý.

Nguyễn Quang Thiều không phải là nhà thơ duy lý mà vẫn là nhà thơ nhạy cảm duy tình mang căn tính Việt. Vì quá nhạy cảm nên lúc nào ông cũng nghe thấy những tiếng vọng, tiếng gọi mơ hồ, tiếng thầm thì, tiếng kêu dịu dàng, tiếng thét đau đớn…. Những âm thanh đó vọng khắp mọi không gian đa chiều: “vọng từ chân trời”, “vọng từ cánh đồng”, “vọng từ đầm nước”, “vọng từ ngôi nhà” (48); vọng từ nghĩa địa (62); vọng từ “thế giới rừng bê tông” (96), vọng “từ hai bờ sẫm tối” (59), từ “những ô cửa vàng mùa thu” (66)... Những âm thanh đó vang lên từ ký ức, từ những giấc mơ, từ cơn ác mộng, từ mối liên hệ thần giao cách cảm, từ miền tâm linh huyền nhiệm, thăm thẳm liêu trai… Đó là “giọng người xưa” (62), là “tiếng bàn luận của các vị thần” (48), là tiếng mẹ gọi từ “vầng mây tía bay qua” (89), là tiếng của “người tình kiếp trước” (100), thậm chí là “một tiếng gọi từ vùng thẳm sâu không có những cái miệng” (31)…

Những biểu tượng làm nên nét riêng trong thơ Nguyễn Quang Thiều ở những tập thơ trước vẫn tiếp tục xuất hiện ở tập thơ này. Chẳng hạn, có tới 18 lần biểu tượng cánh đồng có mặt với những kết hợp lạ như: cánh đồng mù (31), cánh đồng nhân tính (67), cánh đồng người (74), cánh đồng bóng tối (82), cánh đồng tóc Quận (90), cánh đồng nhớ thương hoàng hôn đau đớn (95)… Nhưng đặc biệt hơn, trong “Nhật ký người xem đồng hồ”, hệ thống biểu tượng vẫn tiếp tục chuyển động, khi cộng thêm những biểu tượng mới là mây hạt (cây)…

Baudelaire đã từng viết: “Tôi yêu những đám mây… những đám mây đang trôi qua… ở phía xa kia… ở phía xa… những đám mây kì diệu” (Người xa lạ). Có lẽ Nguyễn Quang Thiều cũng giống Baudelaire yêu mây, nên mây đậu vào thơ ông như ám ảnh. Ở tập thơ này, mây xuất hiện nhiều lần với đủ sắc màu: mây trắng (50, 62), mây vàng (70, 100), mây tía (89), mây ngũ sắc (49); mây của đủ bốn mùa: mây mùa thu (49, 92), mây mùa xuân, mây mùa hạ, mây mùa đông (49); mây với đủ các kết hợp (danh/ động/ tính từ): mây trời (68), mây tự sát (23), mây bay (43, 75), mây nặng (38), mây thơm (“mây trên đầu con thơm hoa”) (69); mây mang tên (người) (95)… Mây trong thơ Nguyễn Quang Thiều không chỉ có nghĩa đen mà còn là mây hư ảo tâm linh, mây là nơi linh hồn trú ngụ… theo quan niệm văn hóa phương Đông. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã từng giảng: Khi chết chúng ta đi về đâu? Chúng ta sẽ hóa thành mây, sẽ về “Miền Mây Trắng” và đám mây không bao giờ chết. Chính vì thế, Nguyễn Quang Thiều mới có thể nhìn thấy người cha đã khuất núi của mình “đi trong mây vàng” (100), trong ngày giỗ mẹ, anh nghe thấy tiếng mẹ gọi trong mây tía (49), thậm chí anh còn nhìn thấy đám mây mang danh tính nhà văn nổi tiếng Nguyễn Huy Thiệp (95), và ông cũng nhắn với con gái rằng rồi sau này con cũng sẽ thấy “cha về trong một áng mây bay” (75)…

Hạt trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng là biểu tượng cho sự trường tồn của tình yêu nam nữ, cho sự “khai mùa” sinh sôi tiếp nối thế hệ. Hạt có ý nghĩa bền vững bởi “tính biểu trưng của nó còn vượt lên trên nhịp điệu sinh tồn của cỏ cây, nhằm biểu đạt sự xen kẽ luân hồi giữa sự sống và cái chết”2. Đặc biệt những hình ảnh tượng trưng của hạt với những kết hợp: hạt cây (67), hạt giống (31, 66), hạt cây thẫm đỏ (67), người gieo hạt (66)… đều xuất hiện trong những bài thơ tình yêu nồng nàn, mãnh liệt, ngọt ngào, phồn thực với cảm giác hạnh phúc khi “Da thịt mở ra rực rỡ những mùa” (66), khi “Sau cơn bão mang tên/ Một người đàn ông và một người đàn bà” (66); “cơn bão” ấy đã đổ bộ qua hàng loạt miền ái ân mà nhà thơ gọi là “miền chăn gối” (65), “miền mê man” (65), “miền bất tận” (66)…

Cảm thức tôn giáo vẫn ngày càng đậm nét. Là nhà thơ tôn sùng những giá trị tinh thần nên ở tập thơ này, Nguyễn Quang Thiều vẫn tiếp tục tạo dựng nhiều nghi lễ. Với ông, trồng hoa là một nghi lễ, cắt hoa là một nghi lễ, ăn tối bên hoa là một nghi lễ: “Và một nghi lễ thực hiện buổi tối/ Rượu vang và cá hồi/ Để tôn vinh vẻ đẹp hoa hồng” (25); thậm chí hành động bế cháu cũng giống như một… nghi lễ: “Và tôi bế cháu tôi lên dưới vầng dương rực rỡ/ Người ban tặng cháu tôi những hạt giống vàng” (74)…

Có thể nói, “Nhật ký người xem đồng hồ” là thơ được viết ra bởi một người thơ mẫn tiệp, có ý thức của một công dân toàn cầu. Ông có khả năng biến những thông tin giao tiếp bình thường thành những thông tin thẩm mĩ; lấy cái quen nói cái lạ, lấy cái nhỏ nói cái lớn, lấy cái tôi nói cái ta. Thơ ông mang vân chữ, cá tính riêng biệt cùng hệ thống thi ảnh siêu thực và tượng trưng rất Nguyễn Quang Thiều, không nhòe lẫn với ai. Khi nói như thế, tôi đã nghĩ rất kĩ xem mình có quá lời không. Bởi tôi sẽ rất xấu hổ nếu khen một cái gì đó mà không có căn cứ, cơ sở. Tuy nhiên, với tư cách là một độc giả, tôi có quyền nói lên nhận xét của mình.

Hà Nội, 9/2023
H.K.N
(TCSH416/10-2023)

----------------------------------
1 Nguyễn Đăng Điệp, Trong những tầng sinh quyển văn hóa, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2023, tr. 522.
2 Biểu tượng văn hóa thế giới, tr. 389.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH