NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trong hoạt động văn hóa - văn nghệ, một vấn đề thường gây ra bất đồng - thậm chí đưa đến những "vụ việc” tai tiếng - là việc đánh giá, bình chọn tác phẩm.
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê - Ảnh: tư liệu
Thế nào là một bức tượng đẹp, một bản nhạc giao hưởng có giá trị, một kịch bản hay... xứng đáng tập trung tiền của để tạo dựng, công bố cho công chúng thưởng thức? Vấn đề thật không đơn giản, vì quan niệm về nghệ thuật và thị hiếu của mỗi người nhiều khi rất khác nhau. Tuy vậy, việc đánh giá tác phẩm văn nghệ vẫn có những tiêu chí, những chuẩn mực chung đã được đúc kết, tích lũy từ bao đời truyền lại, nên nếu có một vốn kiến thức cần thiết về lĩnh vực thẩm định thì thông thường cũng đạt đến sự thống nhất. Những "vụ việc" tai tiếng phần nhiều do người thẩm định không am hiểu chuyên môn, lại quyết định độc đoán hoặc là bị sai khiến bởi cảm tình và ý đồ cá nhân.
Chính vì vậy mà từ lâu Đảng và nhà nước ta trong nhiều chỉ thị, nghị quyết đã đề ra việc thành lập Hội đồng nghệ thuật ở các cấp để quyết định hoặc làm tư vấn cho các cơ quan Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị và văn hóa-văn nghệ (năm 1987) đã chỉ rõ: "Các hội đồng nghệ thuật do cấp ủy đảng và cấp chính quyền thành lập bao gồm những người có uy tín và am hiểu nhất về một ngành nghệ thuật hoặc một số ngành nghệ thuật gần nhau. Các hội đồng có nhiệm vụ và quyền hạn đầy đủ để quyết định những vấn đề nghệ thuật thuộc phạm vi xem xét của mình, và chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Trường hợp cần thiết, có thể thành lập các hội đồng tư vấn, hội đồng lâm thời để giúp các cơ quan lãnh đạo, quản lý xử lý các vấn đề văn hóa, văn nghệ trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và những hiểu biết khoa học đáng tin cậy..."
Theo tinh thần đó, những năm qua, nhiều ngành nghệ thuật ở Trung ương và một số địa phương đã thành lập Hội đồng nghệ thuật, nhưng ở Thừa Thiên-Huế thì đến nay chưa có Hội đồng nghệ thuật nào được chính thức thành lập. (Hội đồng xét giải thưởng "Cố Đô" vừa qua chưa có đủ tính chất của một Hội đồng nghệ thuật) Vì sao có sự chậm trễ này? Trả lời cho thấu đáo câu hỏi này, chúng ta cũng sẽ rút ra được những điều có ích, nhưng vấn đề quan trọng hơn là phải thấy rõ tính chất cấp thiết và sớm quyết định những bước để tiến tới thành lập được các Hội đồng nghệ thuật ở Thừa Thiên-Huế.
Hiện nay, các ngành văn hóa-văn nghệ đang chuẩn bị cho những công trình tương đối có quy mô lớn, kỷ niệm các ngày lễ lớn trong hai năm 1994-1995. Nếu không dựa vào những Hội đồng nghệ thuật có đủ năng lực và điều kiện làm việc, những tác phẩm, công trình văn hóa-văn nghệ được chọn để công bố, dàn dựng rất dễ có khiếm khuyết; khi phát hiện được chúng thì công trình đã dựng xong, lãng phí một khối lượng tiền bạc của nhân dân không nhỏ. Có những loại hình như tượng đài, công trình kiến trúc, có khi thấy rõ khuyết tật vẫn không dễ phá bỏ, không thể "xếp xó" được, tạo nên một cái "vết" làm phiền lòng, làm đau đầu nhiều thế hệ. Đặc biệt, đối với Huế, một vùng đất đã có nhiều công trình văn hóa được quốc gia và thế giới xếp hạng, một địa chỉ đang ngày càng có nhiều khách du lịch trong và ngoài nước tìm đến, nếu sơ suất để "lọt lưới" những cái "vết" như thế trong các tác phẩm, công trình mới xây dựng thì "tiếng dữ đồn xa" sẽ gây ra hậu quả xấu về nhiều mặt. Trong việc xét tặng các giải thưởng, việc chọn mua các tác phẩm tiêu biểu của văn nghệ sĩ đưa vào bảo tàng cũng rất cần đến ý kiến thẩm định của Hội đồng nghệ thuật.
Như vậy, việc thành lập sớm các Hội đồng nghệ thuật ở Thừa Thiên - Huế là điều đương nhiên, có lẽ không cần phải bàn cãi, luận lý gì thêm. Vấn đề còn lại là các Hội đồng nghệ thuật sẽ được hình thành như thế nào? Quy chế và quyền hạn ra sao?... Giải quyết các vấn đề này hẳn phải là nhiệm vụ trọng yếu của các cơ quan hữu quan (Hội Văn nghệ, Sở Văn hóa thông tin...) trong một vài phiên họp. Ở đây, trong phạm vi một bài báo ngắn, chỉ xin nêu một ý kiến là với xu thế chuyên môn hóa của đời sống xã hội cũng như trong nghệ thuật, với đặc tính cơ bản của Hội đồng nghệ thuật là để những người am hiểu chuyên môn có tiếng nói quyết định, thì rất nên tránh thành lập Hội đồng nghệ thuật theo kiểu "tổng hợp" và "liên hiệp", mà nên tổ chức nhiều Hội đồng theo các chuyên ngành và thành viên của các Hội đồng đó phải do từng chuyên ngành cử ra, sau đó công khai cho mọi người biết.
N.K.P.
(TCSH65/07-1994)
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!