Thả chim làm phúc

15:49 08/11/2011
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

Minh họa: BỬU CHỈ

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]


NIKOM RAYAWA


Thả chim làm phúc


Cụ già tóc bạc phơ ngồi tâm niệm trên thềm xi măng bao quanh gốc cây nhà Phật. Khuôn mặt cụ đầy nếp nhăn và hai má lõm sầu để lộ hai quai hàm móm mém. Chiếc gậy cụ cầm phía tay phải run rẩy không ngừng. Cụ ngồi đó mơ màng một lúc lâu thì chợt tỉnh và nhìn thấy một chiếc xe ca đỗ sịch bên cạnh. Cụ chăm chú nhìn đám hành khách nhốn nháo xuống xe và dẫm bừa lên đám cỏ non. Họ là những nam nữ thanh niên ăn mặc quần áo màu sắc lạ kỳ. Họ đội những thứ mũ không kém phần kỳ quái. Cái gì họ thấy cũng làm họ cười thích thú và tán chuyện lô bô. Cụ lẩm nhẩm: "Khách du lịch đây. Họ dạo chơi đây mà".

Đám khách đi vào trong đền thờ, ai nấy lủng lẳng máy ảnh bên vai. Họ cứ khoác máy như thế mà chụp ảnh, nhìn phải, ngắm trái, bấm tí tách, trao đổi dăm câu bông đùa. Kìa, chú chim nhỏ sắp ra khỏi lồng. Nó nhảy nhót trước ống kính, từng con một hay cả đàn. Bọn người kia thì cứ chụp theo nhiều góc độ, nhăn nhó vì lấy sai tầm, sửa lại mũ hay khăn quàng xộc xệch vì chen lấn. Kìa, được rồi! Hai, ba, tách! Cả bọn xúm tụm lại chụp chung, rồi sau một tiếng tách, họ lại tản ra ồn ào náo nhiệt.

Đám người chậm rãi tiến về phía bàn thờ, nơi có bức tượng Phật óng ánh đẹp mắt. Lối vào đền thờ ngổn ngang hương khói, nến và vàng mã. Bên trong, dưới ánh mờ mờ, qua làn khói hương và nến đậm đặc, vang lên tiếng hương trầm nổ lách tách. Ở lối ra tiếng nhạc tiếng trống âm vang chen lẫn với tiếng ăn mày kêu xin và tiếng chào hàng bán vé xổ số, tiếng rao của người bán chim. Cụ già chăm chú nhìn theo đám du lịch mà lẩm nhẩm luôn miệng: "Khách du lịch đấy mà. Họ đến viếng đức Phật tổ"

***

Ở cửa vào cũng như ở cửa ra, tiếng các đồng xu leng keng rơi vào mấy chiếc ống của đám ăn xin vang lên không ngớt. Già có, trẻ có, mặt mày nhem nhuốc, thân hình gầy guộc, khố rách áo ôm, đám ăn xin tạo nên một quang cảnh ảm đạm thê lương. Đứng cuối hàng ăn xin là một cậu bé trần truồng mà đám xương sườn lồ lộ dưới làn da ngăm đen. Cậu ta ngậm ngón tay trỏ trong mồm, còn tay kia chìa ra cái bát cơm bẩn thỉu và trống rỗng. Đôi mắt mờ đục của cậu ta hỏm sâu.

Đứng cạnh bàn thờ, người bán chim đang chào hàng. Sau lưng ông ta là cả một dãy lồng chim sơn màu sặc sỡ nhốt đủ các loài chim. Ông ta bán chim cho ai hảo tâm muốn thả chúng ra để làm phúc và còn bán nhiều thứ nữa, kể cả những chiếc lồng sặc sỡ kia.


Một con chim sáo màu nâu bị nhốt trong chiếc lồng gỗ nhỏ hẹp, chỉ đủ chỗ cho nó quay mình lại nhưng không nhảy nhót cũng không giang rộng cánh ra được. Nó kêu lên những tiếng khản đục. Bộ lông nâu đã thành xám xịt và đôi mắt lờ đờ.

Cô gái cầm chiếc lồng chim, đưa tay vuốt ve con chim ủ rủ:

- Tội nghiệp con chim. Có mệt lắm không?

- Thật khổ thân cho nó - chàng trai đứng cạnh cô gái nói.

Cô gái quay mặt lại phía người bạn trai mỉm cười:

- Em có hỏi chim đâu? Em hỏi anh đấy chứ!

- À thế - chàng trai lắc đầu đáp - Nhìn chim, anh thấy người khó chịu lắm.

- Anh quá đa cảm. Được rồi, ta sẽ mua rồi thả con chim này ra, anh sẽ thấy khỏe khoắn trong người ngay thôi mà.

- Em tin như thế à?

- Ừ, làm sao?

- Chắc chứ?

- Thôi đừng hỏi em nữa, anh thả chim đi!

***

Khi cửa lồng chim mở ra, con chim sáo nhỏ bay thẳng lên đậu ngọn cây nhà Phật rồi vì kiệt sức, rơi xuống lùm cây ven sông. Người bán chim thu lại lồng chim từ tay chàng trai và đặt nó vào trong một chiếc bồ to cạnh các lồng chim khác.

Cô gái nhìn theo con chim rơi xuống bụi cây rồi ngoảnh lại phía chàng trai dò hỏi:

- Anh đã đọc lời ước gì chưa?

- Không, không đọc lời ước nào hết.

- Cần phải đọc lời ước chứ!

- Anh có biết ước gì đâu.

- Cứ ước cái gì đi rồi anh sẽ thấy người khỏe khoắn cho mà xem. Sao? Anh thấy người khỏe ra chưa?

- Chưa, chưa thấy gì hết.

- Đáng ra anh thấy người khỏe lên mới phải.

- Vừa rồi ta làm gì đấy em nhỉ?

- Sao anh hỏi lạ thế? Cô gái nói. Anh không nhớ gì thật à?

- Thật thế.

- Anh vừa thả chim đấy mà…

- Anh không có cảm hứng rằng mình vừa thả chim, anh ta nói. Anh cảm thấy anh chẳng thả cái gì hết...

- Nhưng chẳng phải anh vừa thả con chim đó sao?

- Em nhìn kia kìa- chàng trai nói - Có một đống lồng chim không đấy. Rồi ắt phải có những con chim bị nhốt vào đấy. Chừng nào mà những lồng chim kia chưa bị phá đi thì ta chẳng giải phóng được cái gì hết hay một con chim nào hết. Cần phải mang các lồng chim kia đi phá tất mới được.

- Anh điên rồi sao? Cô gái nói. Chưa có ai làm như vậy cả. Anh mà làm như vậy thì chỉ có điên mà thôi.

Có tiếng người gọi nhau í ới, tiếng chân bước dồn dập và sau khi mọi người đã lên ngồi hết trên xe để ra đi thì tiếng động cơ nổ giòn. Xe ca chuyển bánh, trở ra đường cái, đi qua cầu và khuất sau chỗ rẽ. Cụ già vẫn ngồi yên dưới gốc cây, đôi mắt xa xăm: "Khách du lịch đấy mà. Họ đến thả chim làm phúc đấy".

***
Cảnh vật trên vườn cỏ non quanh cây nhà Phật trở lại yên tĩnh trong ánh nắng bàng bạc của trời chiều. Đội nhạc đang nghỉ tay, mấy người bán vé xổ số không gân cổ rao hàng nữa và đám người ăn xia tìm chỗ ngồi đẹt xuống đất, y như những vật thể bất động. Người bán chim thò tay vào chiếc bồ nắp lưới lấy ra một con chim sáo nhỏ khác rồi đem bỏ nó vào trong chiếc lồng rỗng. Ông ta đậy nắp lồng, cài then rồi sắp đặt lại dãy lồng cho ngăn nắp để đón chào khách mới.

Cậu bé ăn xin có bộ sườn thoi thóp theo hơi thở vẫn ngậm ngón tay trỏ trong mồm. Cái bát cơm bẩn thỉu mà cậu ta cầm bên tay phải bây giờ có thêm đồng xu nhỏ. Mắt cậu bé cứ lờ đờ như vậy.

Cụ già gượng đứng lên, tay ráng chống mạnh lên chiếc gậy. Cụ lê từng bước chậm chạp ra bờ sông dưới ánh nắng trời chiều hâm hấp.

"Khách du lịch đấy mà - cụ lẩm bẩm - Họ đến đông làm sao…"

N.R.
T.Q. dịch từ bản tiếng Pháp của Marcel B và Anouraie M. trong báo Pháp "Thế giới ngoại giao".
(18/4-86)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ANTONIO TABUCCHIAntonio Tabucchi (sinh năm 1945) là một trong những nhà văn được đọc nhiều nhất và dịch nhiều nhất hiện nay của Italia, bậc thầy nổi tiếng về truyện ngắn tâm lý.

  • IVAN BUNHINLúc ông ta đội mũ, đi trên phố hay đứng trong toa tàu điện ngầm không thấy rõ mái tóc cắt ngắn hung hung đỏ có những sợi lóng lánh, qua vẻ tươi tỉnh của gương mặt gầy, nhẵn nhụi, thân hình cao xương xương cứng đơ trong chiếc pan- tô không thấm, có thể đoán ông không quá 40. Chỉ cặp mắt xám nhạt luôn chứa một nỗi buồn khô khốc nói lên rằng ông là một người đã nếm trải nhiều trong cuộc đời.

  • LTS: Anatoli Kudraves là một nhà văn Beloruxia tài năng. Phần lớn các tác phẩm của ông thể hiện cuộc sống của những người nông dân, người chủ chân chính, giàu bản sắc riêng và chân thành của chính quê hương mình. Tác giả đã dẫn dắt nhân vật của mình trải qua công việc tập thể hóa nông nghiệp, trải qua những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và cả thời kỳ kinh tế đổ nát sau chiến tranh cho đến ngày hôm nay.

  • BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.

  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.