NGUYỄN HƯNG HẢI
Tranh của HS Võ Văn Quý
Tam nông
I
Tam Nông
Bao giờ em trở lại
Tôi vẫn đứng chờ em ngoài rặng vải
Chờ em ngoài cơn mưa
Tu hú kêu rối ruột bốn mùa
Kêu như thể em mới vừa xua đuổi
Kêu như thể rắc muối xuống ngày ôi
Đâu nhúm cỏ ngày xưa ta vặt ném lên trời
Em rách áo đi về trong khúm núm
Đêm để mất ngày tìm trong búi đũm
Cả một đời không dám lộ cùng ai
Em giấu ngày qua
Tôi sợ ngày mai
Tam Nông nhiều cái mất
Bao vội vã qua đường không để gặp
Em có về tắm lại bến Gành không?
Nếu có về nhớ gọi những hừng đông
Bến đã rủ con thuyền lên bãi sỏi
Sông Thao chảy quãng này như lầm lụi
Mẹ một đời cất chũm ngõ không trăng
II
Tam Nông
Đã khi nào ta cùng hẹn về thăm
Cái dốc nhỏ không phanh nào dừng được
Cái dốc nhỏ quanh co nhiều đoạn vượt
Ta đã từng đi trước lại về sau
Bao mất còn, thật giả ở trong nhau
Thương mến nhất là quãng đời đi học
Con đường đất không mưa mà vẫn trượt
Sắn và người ngã cạn mấy nghìn năm
III
Tam Nông
Tôi trở về thất lạc một vầng trăng
Đã hao khuyết cho tròn đầy nơi khác
Sóng của ngày hôm qua vẫn không thôi dào dạt
Bến bờ nào xa lắc
Khó hình dung?
Tam Nông
Có cái gì xua đuổi phía sau lưng
Có cái gì chặn ngang trước cổ
Mong gặp lại bàn tay quen cắt cỏ
Em đã từng chép hộ
Suốt chiều mưa!
Thôi đừng ai nhắc lại chuyện ngày xưa
Đã xưa hết cả những gì chưa tới
Đã xưa hết, dẫu đang nhiều mong đợi
Sao không quên câu ghẹo
Dắt lên đồi
IV
Tam Nông cho tôi
Tôi lại đã cho người
Bao câu chuyện của làng cười đang khóc
Bao câu chuyện chưa kể còn xanh tóc
Nghe một lần phơ phất tựa ngàn lau
Cả pha lê
Như cũng đã đổi màu
Con tu hú đã tìm đường bay mất
Em nhìn xem cây vải đã đâu rồi?
Năm em học lớp mười
Có còn trong ký ức
Năm tôi chờ hết cấp
Đã bay vù qua mặt những làng quê!
V
Cỏ còn không mọc nổi dưới vòm tre
Đừng vội trách tiếng chim ngoài rặng vải
Em có khác bao người không trở lại
Em vẫn em giữa phố sợ ao nhà
Sợ chuỗi ngày khoai sắn vẫn chưa xa
Sợ nhắc lại người chê
Quê cả nón
Ta chỉ có một quê không thể chọn
Nhưng em ơi, đừng để nhỡ hai lần
Bao giờ ta trở lại
Nếu có về rặng vải nhớ dừng chân.
(SH301/03-14)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi