Tạm biệt Huế với anh, giờ vĩnh biệt

16:23 25/05/2009
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

Nhà thơ Thu Bồn

1. Mùa lụt 1983 tôi ghé Huế, tình cờ gặp nhà thơ Thu Bồn đang uống rượu ở nhà Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Anh đang sướng vì câu nói ngây thơ và rất nên thơ của bé Hoàng Dạ Thi: "Huế vừa đi vừa tím”. Thu Bồn thú nhận rằng, anh đã đến Huế nhiều lần, và cũng bị ám ảnh về "Huế tím", nhưng không thể nào hình dung ra được "Huế vừa đi vừa tím" rất xuất thần như vậy. Anh bảo, thơ ca lạ lùng nhất phát ra từ cặp mắt và tâm hồn trẻ thơ, và khen Hoàng Dạ Thi là một "thi sĩ đại tài thiên bẩm". Khi rượu đã ngấm men, tình càng thúc gọi, anh rủ tôi đi bộ qua cầu Gia Hội sang Chi Lăng thăm cô gái anh mới quen, cô Châu. Cô Châu mắt to, mũi cao, da ngăm, có dáng thể thao khoẻ mạnh, vui vẻ đón chúng tôi. Ngồi uống nước trước bàn thờ còn đọng ngấn nước sau trận lụt mới vừa lui, Thu Bồn bảo chính ngấn nước ngập bàn thờ ấy đã "xui" anh viết được bài thơ về lụt Huế, rồi anh đọc rất xúc động bài thơ ấy. Tôi nhớ có câu thật ấn tượng: "Một phen cóc nhái nhảy lên bàn thờ". Nhưng có lẽ bài thơ hay nhất anh viết về Huế lại là bài "Tạm biệt" anh viết sau đó mấy hôm.

            Bởi vì em dắt anh lên thăm ngôi đền cổ
            Chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu


Anh thổ lộ với tôi, em trong bài thơ là một cô gái có thật. Tôi đoán cô Châu. Anh cười hiền.
Người yêu thơ ở Huế không ai không thuộc bài thơ này. Bài thơ có hai câu rất xuất thần về Huế - sông Hương:

            Con sông dùng dằng con sông không chảy
            Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu


Sau này anh tục huyền với nghệ sĩ Lý Bạch Huệ, trong các cuộc rượu với Thu Bồn, anh em Huế thường đùa anh, đọc trệch chữ Huế thành ra Huệ bằng giọng Huế rất dễ thương: "Sông chảy vào lòng nên Huệ rất sâu". Đến hai câu kết bài thơ "Tạm biệt Huế với chiếc hôn thầm lặng - Anh trở về hoá đá phía bên kia", anh em lại đùa anh: "Anh trở về hoá đá ở trong bia". Đá ở đây là nước đá và bia ở đây là bia anh vẫn hay uống, chứ không phải là "trăm năm bia đá thì mòn". Điều đó chứng tỏ bài thơ "Tạm biệt" của Thu Bồn đã trở thành bài thơ ngôn truyền hết sức độc đáo.

Có một điều thú vị là khi đưa in bài thơ này, có một chữ đã được thay đổi so với "bản gốc" mà tôi được nghe anh đọc lần đầu ở câu: "Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt", thành ra "Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt". Tôi nghĩ rằng, trong trực giác, Thu Bồn đã biết trước một tình yêu không thành và anh đã gieo vào lòng mình hai chữ "vĩnh biệt", nhưng hình như nói thế sợ xui xẻo, nên anh đã đổi thành tiễn biệt, nó đẹp và còn mang theo chút hy vọng trở lại với "Em", với Huế. Bây giờ bài thơ đã tròn 20 tuổi, và Thu Bồn đã mãi mãi vĩnh biệt Em, vĩnh biệt Huế, vĩnh biệt thế gian này, hai từ vĩnh biệt trong bản gốc bài thơ anh viết bỗng cứ ám ảnh trở lại trong tôi. Và tôi bỗng nhớ cô Châu mắt to, mũi cao... Mười năm trước tôi gặp cô bán hàng áo quần thùng cạnh đường Lê Lai thành phố Hồ Chí Minh, bây giờ Châu đang ở đâu? Bây giờ chắc cô còn nhớ câu thơ đẹp trong bài thơ "Tạm biệt" của Thu Bồn:

            Nón rất Huế mà đời không phải thế
            Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng


Không biết hôm đưa Thu Bồn đi thăm thú Huế, cô Châu có đội nón bài thơ Huế không nhỉ? Hay đấy chỉ là một ấn tượng chung về những chiếc nón bài thơ xứ Huế đã nhập vào thơ anh?...

2. Năm 1985 vào ngày đổi tiền, tôi và Thu Bồn lang thang trên đường phố Hà Nội, không đồng xu dính túi, mà lại thèm ngồi nhâm nhi chén rượu với nhau. Thu Bồn tháo đồng hồ tay và lấy chiếc mũ cối bộ đội của tôi đi bán cho con phe để lấy tiền uống rượu, nhưng con phe cũng từ chối. Anh quyết định "đẩy" chiếc xe máy Vec-pa, nhưng người hẹn mua không tới. Liền rủ tôi đến nhà văn Ngô Thảo xúc mấy ký gạo ra chợ Âm Phủ đổi lấy rượu và thịt chó. Thế là bạn bè kéo đến uống rượu, đọc thơ. Tối hôm ấy, tôi và Thu Bồn ngủ trên sân thượng nhà Nguyễn Thuỵ Kha (cùng ngõ với Ngô Thảo). Ngủ trên sân thượng thật mát mẻ, phóng khoáng, nhưng quá nửa đêm trời đổ mưa. Sợ phiền vợ chồng Kha, tôi và anh cuốn chiếu xuống hành lang cạnh cầu thang ngủ tiếp. Nào ngờ cản đường chuột chạy. Một con chuột cống đã cắn vào trán Thu Bồn, toé máu. Sáng ra, vợ Kha hốt hoảng, tìm bông băng băng lại vết thương cho anh. Ngô Thảo thương quá, tổ chức một tiệc rượu để "chia buồn" với thi sĩ bị chuột cắn. Cuộc rượu toàn những nhà thơ nhà văn lính. Bỗng có hai cô gái Hà Nội rất xinh dến thăm "thương binh", họ ào vào ngồi hai bên tả hữu Thu Bồn mà... rót rượu. Nhà nghiên cứu phê bình Đào Thái Tôn xuất hiện, đòi ngồi cạnh Thu Bồn để "nghiên cứu" vết thương trên trán anh, nhưng hai cô gái quyết cố thủ. Họ Đào thất thế, bỗng xuất thần đọc câu thơ sáu chữ trả miếng hai cô gái:

            Anh ngon đến chuột cũng thèm!

Câu thơ xuất thần bất ngờ được vỗ tay tán thưởng, khiến hai cô đỏ mặt, vội nhường chỗ cho họ Đào ngồi bên Thu Bồn để "nghiên cứu" vết thương và rượu làng Vân.

Sau hôm đó tôi làm bài thơ "Những nhà thơ lính" đề tặng Thu Bồn, có hai câu kết:

            Không phải khách ăn theo không phải thợ gặt giùm
            Những nhà thơ qua máu lửa chiến trường!


3. Vâng! Thu Bồn là một nhà thơ lính thực thụ. Anh tên thật là Hà Đức Trọng, sinh ngày 1-12-1935 tại Quảng Nam, nơi có con sông Thu Bồn cát trắng dâu xanh mà anh lấy làm bút danh để tạ ơn quê hương mình. Anh gia nhập quân đội cuối cuộc kháng chiến chống Pháp sau vài năm đi dạy học, và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, anh bám trụ ở chiến trường Trung Trung Bộ cho đến ngày đất nước thống nhất mới về làm biên tập ở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh là nhà thơ rất nổi tiếng với tập trường ca Bài ca chim Chrao (1964) được trích giảng trong sách giáo khoa, đoạt giải thưởng Hoa Sen của hiệp hội nhà văn Á - Phi và giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu. Anh đã xuất bản nhiều tập thơ, đặc biệt là đã in hàng loạt trường ca dài hơi như Cămpuchia hy vọng, Bazan khát, Oran 76 ngọn, v.v... đồng thời anh cũng là một nhà văn xuôi sung bút với nhiều tập tiểu thuyết viết về chiến tranh và cách mạng như Chớp trắng, Dưới đám mây màu cánh vạc, Xa cảng miền Tây, Đỉnh núi, v.v... Thơ văn anh có thể ví với dòng sông đầy ghềnh thác, cuộn xiết và réo gọi. Tâm hồn anh luôn khoẻ mạnh, vạm vỡ. Anh là một người khai phá trên các ngọn núi đời sông, cày xới tung lên cả đất tốt và đất sỏi bạc màu. Đất tốt và đất xấu anh đều gieo hạt văn thơ và gặt hái bội thu sau những mùa gieo vãi. Ngòi bút anh găm sâu vào những đề tài mang tính anh hùng ca, nhưng cũng chan hoà máu lệ trong những bi thương, đau khổ của kiếp người. Có lúc nghe anh ngâm thơ mà tưởng như anh đang khóc:

            Lấy khăn mà gói bơ vơ
            Tay cầm nước mắt sững sờ chiêm bao

Có khi lại thấy anh như một kẻ đa tình tài hoa:

            Thôi đừng cong nữa làn mi
            Trời sinh con mắt khỏi đi đường vòng

Trong một bài thơ tự họa tặng tạp chí Cửa Việt viết năm 1990, Thu Bồn tự nhận mình là "Con Xà Mâu tội nghiệp":

            Lấy xó tối cạnh nhà làm tổ ấm. Ta cẩn thận vòng quanh để bước vào giấc ngủ mà không bao giờ ngủ. Con ruồi lượn trước mắt ta, con kiến cắn bụng ta, con bọ chó chui vào mũi ta, con mèo đến giỡn cấu giấc ngủ ta.
            ...Ta là con Xà Mâu... làm sống giấc ngủ ngon của bao người chủ mới.
            ...Ta là con Xà Mâu xếp hạng cùng phường chó hoang, chó chạy rong, chó ghẻ, chó điên, chó ngộ... là mục tiêu cho những chiếc dây thừng... Những tay săn tha hồ bắn tỉa, ném vòng chịt tiếng sủa ta từ trong cổ họng - tiếng sủa trung thành trở thành phản phúc - con Xà Mâu bị mai phục giữa hai làn đạn chéo súng cực nhanh.
            ...Hãy cất giấu tiếng tru vào bức vách trời xanh, ta nằm nghiêng trên bờ biển đông trên đầu muôn ngọn núi khoả sóng lân tinh với trăng sao...


Đấy là bài thơ Thu Bồn viết vào thời kỳ đổi mới, ngẫm ngợi về con người mình, con người tự nguyện hiến dâng cho sự nghiệp, nhưng cũng là sự chia sẻ tận đáy lòng với những con người tận trung, tận hiếu. Tôi còn nhớ khi chúng tôi đưa in bài thơ này của anh trên tạp chí Cửa Việt, anh đã cảm động rơi nước mắt. Quả thật như vậy, Thu Bồn là một nhà thơ quân đội, không màng chức tước, bổng lộc. Anh sống thật với mọi người, ngang tàng, khí phách và thật giàu tình cảm. Cả đời anh xả vào thơ văn, ộc vào thơ văn và thăng hoa vào thơ văn. Nhờ thế mà thơ văn anh cuồn cuộn, bay bổng và khoan sâu vào tâm thức yêu nước yêu người...

4. Người ta thường tiếu lâm về cái tính tằn tiện của người khu Năm, nhưng với Thu Bồn thì khác. Có tiền là anh nghĩ đến việc tổ chức cuộc vui cho bạn bè. Hồi tôi còn ở Huế, Thu Bồn vào sống ở Sài Gòn, một dịp đi qua Huế, anh đưa một xe bạn bè vào nhà tôi và tuyên bố với vợ tôi là sẽ bày cuộc nhậu tại đây. Vợ tôi đang lúng túng vì tôi đang vắng nhà, anh bảo vợ tôi vào bếp nổi lửa lên, còn anh thì mang vào một lồng gà và mấy ký thịt bò mua dọc đường. Và Thu Bồn xắn tay lên làm bếp. Khi tôi về thì đã thấy một bữa tiệc linh đình bày ra trên sàn nhà lát gạch. Anh bảo tôi gọi bạn bè Huế đến nhậu. Nhậu xong, anh mang chiếc cát-sét ra bật nhạc lên và... nhảy. Thu Bồn thích nhảy những điệu nhảy Mỹ-Latinh, khiến cả căn phòng nhộn nhịp như một vũ trường.

Năm 1998, tôi từ Hà Nội vào Đà Nẵng dự hội nghị văn học miền Trung, ở cùng phòng với Thu Bồn. Tôi kiểm tra ví của anh. Anh bảo: "Thu Bồn giờ túi hết tiền, bút hết mực, súng hết đạn rồi. Buồn lắm!". Tôi thấy thương anh quá, đưa anh ít tiền tiêu vặt. Sáng hôm sau, tôi cùng Thanh Thảo, Nguyễn Thụy Kha đến thăm một tổng biên tập báo, được nhận một số tiền đặt viết bài. Chúng tôi gom lại đưa cho Thu Bồn. Anh cảm động lắm. Nhưng tối hôm đó, anh đã dùng tất cả số tiền ấy mua một chai rượu Tây loại xịn mở ra mời mọi người cùng uống. Tôi trách anh. Anh nói nhỏ nhẹ với tôi: "Tao thấy chúng nó thèm rượu quá mà chẳng đứa nào chịu chi. Hình như chúng nó cũng chẳng có tiền đâu Tạo ạ".

Lại nhớ một lần vào Sài Gòn, tôi rủ Thu Bồn đến quán bia 81 Trần Đức Thảo, nơi anh em văn nghệ vẫn thường lui tới. Tôi gọi một can bia hơi, Thu Bồn ngăn lại. Anh bảo chỉ gọi hai ly và một đĩa đậu phộng thôi. Tôi ngạc nhiên. Anh bảo: "Ta chỉ gọi cò mồi thôi. Lát nữa chúng nó tới, không đủ sức mà nhậu đâu". Quả đúng như vậy, một lát sau anh em văn nghệ tới, người gọi bia, kẻ gọi đồ nhậu cứ tưng bừng như nhà có đám. Trịnh Công Sơn vừa gọi 10 lon bia Ken ứng với số tiền trong túi, thì Trần Tiến đã gọi một thùng đặt vào bàn rồi cáo lui vì có việc bận. Không biết trong cuộc nhậu, Thu Bồn đã hò hẹn thế nào mà tối hôm đó tại nhà Thu Bồn ở số 6 Đặng Thái Thân tụ hội gần 20 người bạn. Bữa tiệc ấy do anh làm đầu bếp cùng với mấy chị rất xinh đẹp đều là vợ của bạn anh. Lại đọc thơ, lại hát. Tôi còn nhớ, Trịnh Công Sơn khen bộ bàn ghế bằng gốc dừa của Thu Bồn thật dễ thương. Thế là sáng hôm sau anh thuê xe chở cả bộ bàn ghế ấy đến nhà họ Trịnh tặng bạn...

5. Có lẽ nhiều người phái đẹp yêu anh không chỉ vì anh là một thi tài nổi tiếng, mà còn vì lối sống rất đàn ông "quân tử" của anh. Tôi không biết nhiều về những người phụ nữ yêu anh hay được anh yêu, nhưng thú thật là tôi có biết. Bây giờ anh vừa nằm xuống mà kể ra, e mình bị coi là người đưa chuyện. Nhưng phải nói thật rằng, tình yêu của anh nói chung là rất đáng yêu. Có lần, anh nhờ tôi đến Viện Ngôn ngữ đưa thư cho một người con gái, hẹn cô đến nhà bạn dự tiệc. Lúc ấy tôi mới thấy một cô gái Hà Nội đẹp đến thế, có thể nói là "nghiêng nước nghiêng thành". Cô tỏ ra mừng rỡ khi nhận được thư mời của Thu Bồn. Và cô nhận lời ngay, không hề phải giả vờ kiểu cách. Còn Thu Bồn thì cứ đi ra đi vào ở ngõ nhà bạn lóng nga lóng ngóng như một kẻ si tình. Nghe nói người yêu cũ của Thu Bồn rủ bạn gái đến nhà cô gái ấy đánh ghen. Cô bạn vào nhà "thám thính” xong, chạy ra nói với người yêu cũ của anh: "Nó đẹp như thế thì mày đánh ghen làm gì. Thôi, về đi".

Tôi có hỏi Thu Bồn, tại sao anh lại thay người yêu như thay áo vậy? Anh bảo: "Thu Bồn thích một tình yêu tự do, mà tìm mãi chưa gặp được". Có lẽ vì thế mà đôi lúc, anh biến tình yêu thành một trò đùa kỳ quái. Đó là lần anh tổ chức một cuộc tiệc gặp gỡ bạn hữu tại Văn nghệ Quân đội. Vừa nâng ly lên, anh tuyên bố giọng rất nghiêm trọng (cũng là một cách đùa của Thu Bồn): "Hôm nay là đám cưới của hai chúng tôi - anh chỉ vào một người phụ nữ xinh đẹp đã có chồng - Xin mời thầy Hiến nói lời chấp thuận cho!". Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến bị "bỏ bom" bất ngờ, nhưng thật hóm hỉnh, ông nói: "Hôm nay thầy chúc cho hai con tự do". Ai cũng biết đấy là đùa, là vui. Vậy mà hôm sau đã có lời đồn đại: Nhà thơ Thu Bồn vừa cưới vợ! Quả là chuyện yêu đương của Thu Bồn chẳng khác gì huyền thoại thời hiện đại...

6. Từ khi có Lý Bạch Huệ, Thu Bồn vẫn rong chơi lãng tử, nhưng chỉ khác là trong các cuộc vui gần nhà hay xa nhà, hai người cứ dính vào nhau như hình với bóng. Lý Bạch Huệ là một nghệ sĩ nổi tiếng, và khi đã chấp nhận Thu Bồn thì không quản rong chơi. Và làm nữa. Có lúc cả hai người phải đi "rao bán" lịch để sống. "Rao bán" lịch mà "trúng" thì vui lắm. Những ngày tháng này, Thu Bồn như khoẻ hơn. Anh vác đá vác đất đắp nền dựng nhà ở Suối Lồ Ồ, cạnh một cái chùa. Mấy nghìn mét đất bên chùa trở thành nhà cửa đúng "gu" Thu Bồn. Nhà xây và nhà tre nứa. Chất đầy tranh tượng phong cách Tây Nguyên. Và chum choé, vò lớn vò bé. Trang trí cung tên, súng săn, đầu trâu, đầu ngựa, sừng hươu sừng nai. Cứ như một bảo tàng nghệ thuật dân tộc học. Cổng to, sân rộng, có thể đậu hàng chục ô tô bạn bè đến thăm viếng vui chơi...

Bỗng Thu Bồn bị tai biến mạch máu não. Tuổi sáu lăm đang phong độ bỗng sụp xuống như một con voi ngã bệnh. Đủ các loại thầy thuốc xắn tay cứu chữa. Cuối năm 2001, tôi và Nguyễn Thụy Kha vào thăm mộ Trịnh Công Sơn ở chùa Quảng Bình nghĩa trang Gò Dưa, ghé suối Lồ Ồ thăm Thu Bồn. Chúng tôi đến sau 1 giờ gọi điện thoại. Ô tô vừa đến cổng đã thấy Thu Bồn đứng giữa sân dang hai tay lên trời như muốn ôm chầm lấy cả chiếc ô tô. Nguyễn Đình Toán nhảy khỏi xe chụp ảnh lia lịa về cuộc gặp gỡ này. Thu Bồn đưa chúng tôi đi thăm khắp vườn, lên nhà trên, xuống nhà dưới, vào tận phòng ngủ của hai người. Trên đầu giường vẫn để một khẩu súng ngắn và mấy viên đạn đồng vàng sẫm. Thu Bồn nói rằng, anh chưa bao giờ rời khẩu súng này. Để làm gì. Để nhớ lính, và để ngừa kẻ trộm. Nhưng kẻ trộm đã lẻn vào khuân đi khá nhiều tranh tượng quí giá của anh. Biết chúng tôi đến, nhưng Lý Bạch Huệ không kịp về. Chị đang mải đi tặng thơ, bán thơ Thu Bồn vừa xuất bản tận trên Biên Hoà.

Thu Bồn lấy một bình rượu quí bảo tôi rót mời mọi người nâng ly. Thu Bồn cũng nâng ly, nhưng anh chỉ nhấp môi chứ không dám uống. Bệnh tật đã cướp đi của anh cái thú vui mãn tính. Thu Bồn nhìn chúng tôi uống rượu, chợt cười buồn...

Xe chúng tôi rời cổng nhà anh, anh vẫn đứng giữa sân dạng hai tay lên trời. Mái tóc bạc trắng bay tung trong gió. Nụ cười sáng giữa lởm chởm râu bạc.

7. 17 tháng 6-2003, tôi về Huế dự lễ kỷ niệm 20 năm Tạp chí Sông Hương. Đêm thơ Sông Hương người ta ngâm thật hay bài thơ "Tạm biệt" của Thu Bồn khi biết tin anh đang hôn mê. Sáng hôm sau, đọc báo đã thấy tin anh qua đời, tôi lại nhớ những dòng thơ tự họa "Con Xà Mâu tội nghiệp":

Ánh sáng róc rách, ánh sáng xoa bóp, ánh sáng vỗ về, ánh sáng râm ran mạch máu, ánh sáng tuỷ năng, ánh sáng hồng cầu, ánh sáng đại não, ánh sáng thần kinh - Ánh sáng là Em. Khối ánh trăng đã đọng thành da thịt, thành vai em, ngực em, đùi em, noãn sào (buồng trứng)... cả hằng hà sa số đợi chờ anh.

Vâng! Thu Bồn đã nhập vào ánh sáng, nhập vào vũ trụ. Anh nhập vào phía nam, anh hoà vào phía bắc, anh bay về trong dâu xanh cát trắng nước trong của dòng sông quê mẹ hay trên những ngôi đền cổ xứ Cố Đô... Câu thơ của hai mươi năm trước anh viết khi xa Huế, giờ đã trở thành định mệnh của đời anh:

            Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
            Vĩnh biệt anh, Thu Bồn - Hà Đức Trọng!

Huế 19 - 6 - 2003
N.T.T
(173/07-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)

  • ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).