NGUYỄN NGỌC THIỆN
Ảnh: internet
Một trong những điều làm nên cái phần đáng quý và nét độc đáo trong văn nghiệp Hoài Thanh, theo tôi có lẽ tập trung và nổi bật ở chỗ này chăng: với thời gian và sự chín muồi của tư duy nghệ thuật, bằng hoạt động thực tiễn của cây bút và lời nói, ông đã đinh ninh xác quyết và dần dần hoàn thiện quan điểm văn học nhất quán, đi từ chỗ phiến diện, thiên lệch, nặng về phía chủ quan của cái riêng, cái tôi, cái đặc thù - mặc dù là có lý, nhưng còn nhiều khiếm khuyết quá - đến chỗ hài hòa, biện chứng, có sức thuyết phục bởi đúng đắn, đầy đủ, không cực đoan.
Trước Cách mạng Tháng Tám, những ngày đầu mới cầm bút đeo đuổi nghề văn, ông tìm thấy ở văn chương không phải chỉ là một phương tiện để kiếm kế sinh nhai, mà quan trọng không kém, đó là một nghiệp, một lẽ sống trong một cách tồn tại có lựa chọn. Ông và một thế hệ thanh niên đến với văn chương như tìm thấy một ốc đảo, một tháp ngà giúp cho mình tự giải thoát khỏi những bức bối, ấm ức về tinh thần trước cuộc đời và xã hội thực dân tối tăm, ô trọc đè nặng lên những con người yếu đuối, lạc lõng, bơ vơ, bế tắc vì bất lực và không thấy đường ra.
Chính trong một chỗ đứng, một tâm thế như vậy - mà ông gọi là thoát ly, quay lưng lại Cách mạng một cách ích kỷ, thiếu trách nhiệm và ảo tưởng về con đường thứ ba, con đường văn chương thuần túy, thay vì cho đại nghĩa - ông đã chủ động "kiếm chuyện" tranh luận với Hải Triều, trình bày công khai một loại quan điểm văn học mà thâm tâm ông cho là duy nhất đúng, cần đề cao và được bảo vệ.
Tuy chỉ tham gia tranh luận với Hải Triều sau khi Thiếu Sơn đã rút lui chấm dứt màn mở đầu không mấy sôi nổi, và chỉ nhập cuộc thật sự với dăm bài đăng trên báo Tràng an nửa cuối năm 1935(1) Hoài Thanh đã làm cho cuộc tranh luận trở nên hào hứng, cuốn hút nhiều người tham gia. Phía Hải Triều đã thành lập một "chiến tuyến duy nhất" để phê phán, tranh biện với quan điểm của Hoài Thanh và sau đó là Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật... Mặc dù Hoài Thanh không thừa nhận mình chủ trương thuyết "nghệ thuật vị nghệ thuật" và là người đứng đầu nhóm đối lập với phía của Hải Triều, nhưng phải nhận rằng ý kiến của ông được trình bày rất hấp dẫn, sắc sảo thật sự tiêu biểu cho một loại quan điểm đang thịnh hành hồi đó.
Tóm tắt quan điểm khi ấy của ông là: Văn chương là chính nó, chứ không phải là một cái gì khác xa lạ với "chân tướng lộng lẫy" của nó. Văn chương là sản phẩm kết tinh của sự rung động trong tâm hồn nghệ sỹ trước Cái Đẹp vĩnh cửu, trước những buồn vui muôn thuở của Con người viết hoa, tức con người thuộc về nhân loại mà thôi. Tác phẩm văn chương là bông hoa mọc trên cuộc sống đầy rẫy những nỗi nhọc nhằn, chật vật, nó giúp cho người ta một sự thoát tục, say sưa vươn tới cái Đạo, cái Thâm chân huyền diệu. Thiên chức của nhà văn là tôn thờ và phụng sự cái đẹp, cái hay, cái tốt qua hình thức biểu hiện nghệ thuật của tác phẩm - điều phải chú trọng trên hết, trước hết. Nhà văn với tài năng độc đáo và bút pháp (cách tả, lối văn) mang tính nghệ thuật. Viết về cái gì cũng được lấy tài liệu ở ngoại giới hay tâm giới đâu cũng được "miễn là làm thế nào tạo nên cái đẹp, trao mỹ cảm cho người xem thì thôi". Cái đẹp vươn lên những ràng buộc của đời sống, không phụ thuộc vào những đòi hỏi phụ, có tính cách "đèo thêm" vào của chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, của những bài học về luân lý.
Ngày nay, chúng ta càng nhận ra một cách rõ ràng sự thiên lệch, cực đoan, nửa vời trong quan điểm văn học nói trên của Hoài Thanh, vì nhà văn đã biệt lập văn chương, nhà văn, tác phẩm và bạn đọc thoát ra khỏi những mối liên hệ bên ngoài, mang tính khách thể, không thể không ảnh hưởng, chi phối chúng: đó là cuộc sống của xã hội, cái thế giới nhân quần với những thiết chế mà ta vẫn gọi là "cơ sở hạ tầng” và "kiến trúc thượng tầng". Một khi mà tính độc lập của văn chương, mặt chủ quan của quá trình sản xuất những giá trị tinh thần, tự do sáng tạo của chủ thể nhà văn, biểu hiện nghệ thuật mang tính hình thức của văn phẩm, tính phổ quát của tư tưởng nghệ thuật chứa đựng trong nội dung... bị đẩy lên ở bình diện tối thượng, duy nhất, thì tính biện chứng của tư duy lý luận về nghệ thuật đã không còn nữa. Chúng ta đã hiểu vì sao ngay từ hồi đó, quan điểm của Hoài Thanh và những người bảo vệ ông, đã không chống lại được sự phê phán đích đáng (dù đôi chỗ còn đơn giản, thô thiển và cũng phiến diện nốt) của Hải Triều và các chiến hữu khi họ vạch ra sự bất cập, nhuốm màu tư sản, dù các ông thanh minh rằng giữa các ông và phái "nghệ thuật vị nghệ thuật" ở Pháp thế kỷ trước không có điểm chung về hệ ý thức và quan điểm nghệ thuật, rằng các ông không thuộc giai cấp phú hào, các ông vẫn bênh vực những người lao khổ, vẫn không rẻ rúng người cầm bút khi họ thực thi phận sự chống lại các sức mạnh của tiền tài, của súng đạn.
Song bất cứ một sự thiên lệch đến bất cập như thế nào, cũng mang lại một hiệu quả khách quan, có khi ngoài mong muốn của nó. Cuối cùng là nó có thể gợi ý cho ta tiếp cận được sự hài hòa, chừng mực, hợp lý mang tính biện chứng "cổ điển" của tư duy lý luận. Quan điểm của Hoài Thanh về văn chương hồi đó, tuy rất nhiều khiếm khuyết, sơ hở vẫn có những phương diện khả thủ, những khía cạnh chứa đựng hạt nhân hợp lý, không nên gạt bỏ tất thảy. Cần ghi nhận lòng say mê, khao khát chân thành, tuy có nhuốm màu linh thiêng, huyền bí, cao ngạo, bất khả tri, khi ông khăng khăng chú mục đòi hỏi nhận biết nghệ thuật, văn chương chỉ ở bản chất duy mỹ, từ bình diện của cái đặc thù, cái riêng giúp nó khu biệt với những cái khác. Những cố gắng chính danh văn chương - tức định danh trên cơ sở định tính, truy tìm gốc rễ, cội nguồn, phẩm chất thứ thiệt, "chân tướng lộng lẫy" của nó, và sự lo ngại đến mức phải nói to lên và ghi lấy làm lòng rằng chỉ tìm thấy cứu cánh của văn chương ở chính cái bản ngã đích thực của nó, không nên phó thác nhờ cậy vào những cái khác mà chí ít nó chỉ liên quan và phụ thuộc là cùng... đó là nhiệt tâm và thiện tâm rất đáng trân trọng. Tư tưởng của Hoài Thanh "văn chương là văn chương", "văn chương muốn gì thì gì, trước hết cũng phải là văn chương đã”, cần được hiểu một cách đúng đắn rằng tác giả chỉ muốn lưu ý và khẳng định mặt cơ bản, sống còn, khởi nguyên, có tính chất quyết định sự tồn tại của văn chương phải được nhìn thẳng, nhìn chính diện, nhìn vào từ cái "gen" mang tính riêng khu biệt nó với các cá thể khác, mà ra.
Nói tóm lại, sự bất cập, phiến diện trong quan điểm văn chương của Hoài Thanh hồi đó, đã là những phản đề lý luận bổ ích, khơi gợi chúng ta tiếp tục suy nghĩ hoàn thiện quan điểm, tránh được những thiển cận, ấu trĩ, sơ giản trong khi tiếp cận văn chương và người làm ra nó, người tiếp nhận nó: phải chăng nhất thiết phải duy trì một không gian độc lập và tự do tương đối cho nghệ thuật tồn tại và phát triển; nhà văn cần được tạo điều kiện thuận lợi để duy trì một tâm thế tự nhiên, thoải mái, không bị câu thúc quá để anh ta có thể thành thực và hết mình cho sáng tạo; chỉ đúng và tốt thôi chưa đủ, tác phẩm văn chương trước hết đòi hỏi phải hay và đẹp theo cái cách riêng của nó, nếu không nó sẽ đánh mất mình, bị thay thế bởi cái khác; văn học nghệ thuật xa lạ với sự rập khuôn, khô cứng, nghèo nàn, nhàm chán, nó không ngừng đòi hỏi cá tính sáng tạo độc đáo, sự đa dạng của phong cách và sự phong phú trong những tìm tòi nghệ thuật thỏa mãn các thị hiếu khác nhau trong tiếp nhận và thưởng thức; nghệ thuật đi từ cái riêng đến cái chung, phổ quát, đi từ cuộc sống con người đến với con người, nhân đạo hóa con người, hướng nó vươn tới Chân,Thiện, Mỹ...v.v... và v.v...
Sẽ không lý giải được thành công của Thi nhân Việt Nam, một công trình mà Hoài Thanh (cùng Hoài Chân) làm trong khi và liền sau khi cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-1939 chấm dứt, nếu không thấy rằng: công trình này chính là sự thực thi những quan điểm văn học tuy thiên lệch, cực đoan nhưng vẫn có những khía cạnh khả thủ, những hạt nhân hợp lý... trong đánh giá một hiện tượng văn học đương thời là phong trào thơ mới đang diễn tiến, chưa đi tới kết cục. Bằng năng lực cảm thụ tinh tế, một thái độ và tấm lòng tri âm, tri kỷ với cái hay cái đẹp của văn chương, Hoài Thanh đã chọn và diễn giải qua những lời bình hấp dẫn, phần tinh túy rút từ hàng vạn bài thơ của hàng trăm người làm thơ, những nhà thơ thực sự có tài năng cùng những thi phẩm có giá trị nhất, tiêu biểu cho phong cách, hồn thơ và giọng điệu riêng của từng người. Với công trình này, người đọc nhận ra bộ mặt đích thực của thơ mới, với những thành tựu nghệ thuật có sức thuyết phục bởi cái hay, cái đẹp, sự tìm tòi nghệ thuật và bản sắc riêng của từng thi sỹ qua các thi phẩm. Từ khi ra đời đến nay, đã 50 năm trôi qua, Thi nhân Việt Nam đã chịu được sự thử thách của thời gian, nó chứng tỏ bản lĩnh của cây bút phê bình trong cảm thụ gây ám ảnh sâu sắc về cách tân của thơ mới về phương diện nghệ thuật của hình thức và giọng điệu thơ, điều mà ngoài Hoài Thanh - người có quan điểm văn chương duy mỹ và "vị nghệ thuật" như vậy, khó ai có thể làm hay hơn được.
Từ sau Cách mạng Tháng 8, Hoài Thanh toàn tâm toàn ý dừng ngòi bút phê bình văn học đã có uy tín của mình góp vào xây dựng nền văn học mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ông đến với Cách mạng rất tự nhiên, "lòng rất vui", "không còn tự giam mình trong những góc trời hiu hắt" nữa, mà thực sự làm một cuộc thay đổi "băng mình vào giữa cuộc sống bao la, kỳ diệu, giữa rừng cây đời mãi mãi xanh tươi". Từng bước một, "bắt đầu hình thành những quan niệm khác về nghệ thuật văn chương", "trải qua nhiều phấn đấu", ông thực hiện kiên trì sự biến đổi tận gốc rễ nhận thức mới về văn học. Sự thay đổi này không phải là một nhát cắt, đoạn tuyệt thẳng thừng với cái cũ trong quan niệm về nhân sinh, về nghệ thuật, mà ở đây là một bước tiếp nối, khắc phục những cái bất cập và phiến diện, chủ quan, duy mỹ ngày trước, nâng cao, mở rộng, đổi mới và hoàn thiện những phương diện khả dĩ của cái cũ. Nói như Hoài Thanh, khi "từ những chân trời xa xôi nào đến với ánh sáng của Đảng" ông đã hiểu được rằng văn chương không chỉ còn là câu chuyện của riêng nó, một mình nó. Quan niệm về văn chương không thể dừng lại ở một cách cảm thụ thuần túy về hình thức biểu hiện, câu chữ, giọng điệu mang màu sắc của "cái tôi" cá nhân, mà văn chương trước hết là câu chuyện của cuộc đời, về cuộc đời và con người. Nghệ sỹ không chỉ say mê, thành thực với riêng mình, cho riêng mình, cốt để bộc lộ bản ngã, bản sắc độc đáo của mình là đủ, anh ta cần phải tìm thấy "cái duyên" của sự gắn bó, hòa nhập (tất nhiên, không vì thế mà đánh mất mình) với cuộc sống bên ngoài, với người đời. Suy nghĩ về nghệ thuật của Hoài Thanh giờ đây là suy nghĩ vươn tới sự rộng mở, hài hòa, từ một chỗ đứng đúng, của một cách sống đúng. Cái nhìn và tư duy về văn chương như vậy vừa hướng nội, vừa hướng ngoại; vừa thấy được cái cốt lõi, lại không xem nhẹ cái đích hướng tới. Văn học không còn khép kín trong một chân trời chật hẹp, biệt lập với những phẩm chất đặc thù và nặng về mặt chủ quan; nó biết bắt rễ sâu vào cuộc sống con người, tìm thấy lý do tồn tại, cứu cánh của mình cuối cùng là nhằm phục vụ cuộc sống, phục vụ con người. Ý kiến sau đây của ông là rất tiêu biểu cho nhận thức hài hòa nói trên: "Mọi thứ nghệ thuật, cái đích của nó phải là phục vụ nhân sinh, nhưng muốn phục vụ nhân sinh cho tốt cũng phải có cái say sưa vì nghệ thuật"(2). Có ai ngờ Hoài Thanh kết hợp được tư tưởng "nghệ thuật vị nghệ thuật" với tư tưởng "nghệ thuật vị nhân sinh" một cách biện chứng, như hai mặt không thể thiếu được để làm thành tờ giấy, thế này!
Sau cùng, một khía cạnh nữa cũng nói lên một cách đầy đủ sự chín mùi trong tư duy về nghệ thuật của Hoài Thanh sau cách mạng. Nếu trước kia, viết về sự thành thực trong sáng tác, ông chỉ lưu ý đến tài năng nghệ sỹ trong khi phô bày một cách hồn nhiên (chỉ biết có mình!) về cái tôi chủ quan cũng như trong nỗ lực xới lật vào chỗ tận cùng sâu thẳm của lòng người muôn thuở, khiến cho người đọc phải ngạc nhiên, sửng sốt vì thích thú, mới lạ: "Phải là người có tài mới có thể đi vào những chỗ cùng sâu trong cõi lòng, vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi đưa phả vào những âm điệu hồn nhiên. Những âm điệu ấy đến tai người đời, người đời sẽ giật mình không ngờ người ta có thể thành thực đến thế"(3)
Thì bây giờ, ông đã thấy nếu sự thành thực chỉ riêng là yêu cầu đối với bản thân nghệ sĩ thôi, thì sẽ là không đủ, anh ta còn cần cả sự thành thật, say mê với sự nghiệp chung, với con người và cuộc đời xung quanh anh.
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài! Vẫn rất cần tài năng và công phu, cá tính sáng tạo và độc đáo, song cũng cần chăm lo không kém về tâm trí, về sự thường trực không suy giảm lòng yêu cái đẹp cái tốt trong con người và trước cuộc đời bề bộn. Lấy ví dụ về thành công của tác phẩm Người mẹ cầm súng (của Nguyễn Thi) và Mẹ Suốt (của Tố Hữu), Hoài Thanh cho rằng ở đây có sự gặp gỡ như được chuẩn bị trước, ở thế tiềm năng giữa nhà văn và nhân vật, với những mảnh đời, chuyện đời "hợp với cái tạng của ngòi bút, khiến các anh có thể nhân đó nói lên những gì mình vẫn hằng ấp ủ, suy nghĩ từ lâu", chứ không đơn thuần chỉ do tài văn, tài thơ của các tác giả(4). Như thế là sự thành thực và cái hay của văn chương có được không chỉ do tài năng, ở cái tâm hướng nội, mà còn là do biết hướng cái chủ quan của mình sao cho rung động, hòa nhịp với con người và cuộc sống bên ngoài, khách quan, dường như là đang chờ sẵn, để nhà văn thi thố sở trường, trút vào tác phẩm tâm huyết, tinh hoa của tình cảm và tài năng.
Có thể nói, quan điểm văn học của Hoài Thanh từ trước cách mạng đến sau cách mạng có sự phát triển, tiếp nối và hoàn thiện. Quan điểm đó nói lên sự nhất quán, trước sau như một, lòng say mê chân thành của Hoài Thanh trong tìm tòi cái hay, cái đẹp, cái tốt của văn chương. Những thành tựu trong nghiên cứu, phê bình văn học của ông từ khi cầm bút đến khi dừng lại ở tuổi 73, chính là do ông trung thành và biết phát triển quan điểm sâu sắc và độc đáo đó. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình kiệt xuất trong thẩm định, bình giá văn chương ở phần tinh tuý, sáng lên những phẩm chất nghệ thuật được sáng tạo bởi những tài năng luôn luôn thành thực và tràn đầy cảm hứng./.
Tháng 3 năm 1992
N.N.T
(TCSH49/05&6-1992)
--------------
(*) Tham luận tại Hội nghị Khoa học nhân kỷ niệm 10 năm mất nhà văn Hoài Thanh, và 50 năm xuất bản Thi Nhân Việt Nam do Viện Văn học chủ trì tháng 3/1992 tại Hà Nội.
(1) Đó là những bài sau:
- VĂN CHƯƠNG LÀ VĂN CHƯƠNG, Tràng an, số 48, ngày 15.8.1935.
- Tiếp theo bài “VĂN CHƯƠNG LÀ VĂN CHƯƠNG", Tràng an số 62 ngày 1.10.1935.
- CHẤM DẤU HẾT CHO MỘT CUỘC BIỆN LUẬN, Tràng an, ngày 29.10.1935.
- MỘT LỜI VU CÁO ĐÊ HÈN, Tràng an, số 80, ngày 3.12.1935.
- MỘT BÀI DIỄN VĂN TỐI QUAN TRỌNG VỀ VĂN HÓA, Tràng an. số 82, ngày 10.12.1935.
Cũng phải kể đến những đoạn trích trong cuốn VĂN CHƯƠNG LÀ HÀNH ĐỘNG (bị thực dân cấm phát hành năm 1936) được đăng lại trên HÀ NỘI BÁO và sau đó trên tạp chí TAO ĐÀN cho đến năm 1939.
(2) Hoài Thanh: NGÀY TẾT ĐỌC THƠ XUÂN (viết 1964). In trong CHUYỆN THƠ_ Nxb Tác phẩm mới, H, 1978, tr. 57.
(3) THÀNH THỰC VÀ TỰ DO TRONG VĂN CHƯƠNG. Tạp chí Tao đàn năm 1939, tr. 504.
(4) Hoài Thanh: DUYÊN THƠ, DUYÊN VĂN (viết năm 1974). In trong CHUYỆN THƠ_ Nxb tác phẩm mới, H. 1978, tr, 253.
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.
TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.
TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?
HOÀNG NGỌC HIẾN ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.
TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.
ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…
HỒ THẾ HÀ Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.
HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.