NGUYỄN NGỌC THIỆN
Ảnh: internet
Một trong những điều làm nên cái phần đáng quý và nét độc đáo trong văn nghiệp Hoài Thanh, theo tôi có lẽ tập trung và nổi bật ở chỗ này chăng: với thời gian và sự chín muồi của tư duy nghệ thuật, bằng hoạt động thực tiễn của cây bút và lời nói, ông đã đinh ninh xác quyết và dần dần hoàn thiện quan điểm văn học nhất quán, đi từ chỗ phiến diện, thiên lệch, nặng về phía chủ quan của cái riêng, cái tôi, cái đặc thù - mặc dù là có lý, nhưng còn nhiều khiếm khuyết quá - đến chỗ hài hòa, biện chứng, có sức thuyết phục bởi đúng đắn, đầy đủ, không cực đoan.
Trước Cách mạng Tháng Tám, những ngày đầu mới cầm bút đeo đuổi nghề văn, ông tìm thấy ở văn chương không phải chỉ là một phương tiện để kiếm kế sinh nhai, mà quan trọng không kém, đó là một nghiệp, một lẽ sống trong một cách tồn tại có lựa chọn. Ông và một thế hệ thanh niên đến với văn chương như tìm thấy một ốc đảo, một tháp ngà giúp cho mình tự giải thoát khỏi những bức bối, ấm ức về tinh thần trước cuộc đời và xã hội thực dân tối tăm, ô trọc đè nặng lên những con người yếu đuối, lạc lõng, bơ vơ, bế tắc vì bất lực và không thấy đường ra.
Chính trong một chỗ đứng, một tâm thế như vậy - mà ông gọi là thoát ly, quay lưng lại Cách mạng một cách ích kỷ, thiếu trách nhiệm và ảo tưởng về con đường thứ ba, con đường văn chương thuần túy, thay vì cho đại nghĩa - ông đã chủ động "kiếm chuyện" tranh luận với Hải Triều, trình bày công khai một loại quan điểm văn học mà thâm tâm ông cho là duy nhất đúng, cần đề cao và được bảo vệ.
Tuy chỉ tham gia tranh luận với Hải Triều sau khi Thiếu Sơn đã rút lui chấm dứt màn mở đầu không mấy sôi nổi, và chỉ nhập cuộc thật sự với dăm bài đăng trên báo Tràng an nửa cuối năm 1935(1) Hoài Thanh đã làm cho cuộc tranh luận trở nên hào hứng, cuốn hút nhiều người tham gia. Phía Hải Triều đã thành lập một "chiến tuyến duy nhất" để phê phán, tranh biện với quan điểm của Hoài Thanh và sau đó là Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Phan Văn Dật... Mặc dù Hoài Thanh không thừa nhận mình chủ trương thuyết "nghệ thuật vị nghệ thuật" và là người đứng đầu nhóm đối lập với phía của Hải Triều, nhưng phải nhận rằng ý kiến của ông được trình bày rất hấp dẫn, sắc sảo thật sự tiêu biểu cho một loại quan điểm đang thịnh hành hồi đó.
Tóm tắt quan điểm khi ấy của ông là: Văn chương là chính nó, chứ không phải là một cái gì khác xa lạ với "chân tướng lộng lẫy" của nó. Văn chương là sản phẩm kết tinh của sự rung động trong tâm hồn nghệ sỹ trước Cái Đẹp vĩnh cửu, trước những buồn vui muôn thuở của Con người viết hoa, tức con người thuộc về nhân loại mà thôi. Tác phẩm văn chương là bông hoa mọc trên cuộc sống đầy rẫy những nỗi nhọc nhằn, chật vật, nó giúp cho người ta một sự thoát tục, say sưa vươn tới cái Đạo, cái Thâm chân huyền diệu. Thiên chức của nhà văn là tôn thờ và phụng sự cái đẹp, cái hay, cái tốt qua hình thức biểu hiện nghệ thuật của tác phẩm - điều phải chú trọng trên hết, trước hết. Nhà văn với tài năng độc đáo và bút pháp (cách tả, lối văn) mang tính nghệ thuật. Viết về cái gì cũng được lấy tài liệu ở ngoại giới hay tâm giới đâu cũng được "miễn là làm thế nào tạo nên cái đẹp, trao mỹ cảm cho người xem thì thôi". Cái đẹp vươn lên những ràng buộc của đời sống, không phụ thuộc vào những đòi hỏi phụ, có tính cách "đèo thêm" vào của chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, của những bài học về luân lý.
Ngày nay, chúng ta càng nhận ra một cách rõ ràng sự thiên lệch, cực đoan, nửa vời trong quan điểm văn học nói trên của Hoài Thanh, vì nhà văn đã biệt lập văn chương, nhà văn, tác phẩm và bạn đọc thoát ra khỏi những mối liên hệ bên ngoài, mang tính khách thể, không thể không ảnh hưởng, chi phối chúng: đó là cuộc sống của xã hội, cái thế giới nhân quần với những thiết chế mà ta vẫn gọi là "cơ sở hạ tầng” và "kiến trúc thượng tầng". Một khi mà tính độc lập của văn chương, mặt chủ quan của quá trình sản xuất những giá trị tinh thần, tự do sáng tạo của chủ thể nhà văn, biểu hiện nghệ thuật mang tính hình thức của văn phẩm, tính phổ quát của tư tưởng nghệ thuật chứa đựng trong nội dung... bị đẩy lên ở bình diện tối thượng, duy nhất, thì tính biện chứng của tư duy lý luận về nghệ thuật đã không còn nữa. Chúng ta đã hiểu vì sao ngay từ hồi đó, quan điểm của Hoài Thanh và những người bảo vệ ông, đã không chống lại được sự phê phán đích đáng (dù đôi chỗ còn đơn giản, thô thiển và cũng phiến diện nốt) của Hải Triều và các chiến hữu khi họ vạch ra sự bất cập, nhuốm màu tư sản, dù các ông thanh minh rằng giữa các ông và phái "nghệ thuật vị nghệ thuật" ở Pháp thế kỷ trước không có điểm chung về hệ ý thức và quan điểm nghệ thuật, rằng các ông không thuộc giai cấp phú hào, các ông vẫn bênh vực những người lao khổ, vẫn không rẻ rúng người cầm bút khi họ thực thi phận sự chống lại các sức mạnh của tiền tài, của súng đạn.
Song bất cứ một sự thiên lệch đến bất cập như thế nào, cũng mang lại một hiệu quả khách quan, có khi ngoài mong muốn của nó. Cuối cùng là nó có thể gợi ý cho ta tiếp cận được sự hài hòa, chừng mực, hợp lý mang tính biện chứng "cổ điển" của tư duy lý luận. Quan điểm của Hoài Thanh về văn chương hồi đó, tuy rất nhiều khiếm khuyết, sơ hở vẫn có những phương diện khả thủ, những khía cạnh chứa đựng hạt nhân hợp lý, không nên gạt bỏ tất thảy. Cần ghi nhận lòng say mê, khao khát chân thành, tuy có nhuốm màu linh thiêng, huyền bí, cao ngạo, bất khả tri, khi ông khăng khăng chú mục đòi hỏi nhận biết nghệ thuật, văn chương chỉ ở bản chất duy mỹ, từ bình diện của cái đặc thù, cái riêng giúp nó khu biệt với những cái khác. Những cố gắng chính danh văn chương - tức định danh trên cơ sở định tính, truy tìm gốc rễ, cội nguồn, phẩm chất thứ thiệt, "chân tướng lộng lẫy" của nó, và sự lo ngại đến mức phải nói to lên và ghi lấy làm lòng rằng chỉ tìm thấy cứu cánh của văn chương ở chính cái bản ngã đích thực của nó, không nên phó thác nhờ cậy vào những cái khác mà chí ít nó chỉ liên quan và phụ thuộc là cùng... đó là nhiệt tâm và thiện tâm rất đáng trân trọng. Tư tưởng của Hoài Thanh "văn chương là văn chương", "văn chương muốn gì thì gì, trước hết cũng phải là văn chương đã”, cần được hiểu một cách đúng đắn rằng tác giả chỉ muốn lưu ý và khẳng định mặt cơ bản, sống còn, khởi nguyên, có tính chất quyết định sự tồn tại của văn chương phải được nhìn thẳng, nhìn chính diện, nhìn vào từ cái "gen" mang tính riêng khu biệt nó với các cá thể khác, mà ra.
Nói tóm lại, sự bất cập, phiến diện trong quan điểm văn chương của Hoài Thanh hồi đó, đã là những phản đề lý luận bổ ích, khơi gợi chúng ta tiếp tục suy nghĩ hoàn thiện quan điểm, tránh được những thiển cận, ấu trĩ, sơ giản trong khi tiếp cận văn chương và người làm ra nó, người tiếp nhận nó: phải chăng nhất thiết phải duy trì một không gian độc lập và tự do tương đối cho nghệ thuật tồn tại và phát triển; nhà văn cần được tạo điều kiện thuận lợi để duy trì một tâm thế tự nhiên, thoải mái, không bị câu thúc quá để anh ta có thể thành thực và hết mình cho sáng tạo; chỉ đúng và tốt thôi chưa đủ, tác phẩm văn chương trước hết đòi hỏi phải hay và đẹp theo cái cách riêng của nó, nếu không nó sẽ đánh mất mình, bị thay thế bởi cái khác; văn học nghệ thuật xa lạ với sự rập khuôn, khô cứng, nghèo nàn, nhàm chán, nó không ngừng đòi hỏi cá tính sáng tạo độc đáo, sự đa dạng của phong cách và sự phong phú trong những tìm tòi nghệ thuật thỏa mãn các thị hiếu khác nhau trong tiếp nhận và thưởng thức; nghệ thuật đi từ cái riêng đến cái chung, phổ quát, đi từ cuộc sống con người đến với con người, nhân đạo hóa con người, hướng nó vươn tới Chân,Thiện, Mỹ...v.v... và v.v...
Sẽ không lý giải được thành công của Thi nhân Việt Nam, một công trình mà Hoài Thanh (cùng Hoài Chân) làm trong khi và liền sau khi cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-1939 chấm dứt, nếu không thấy rằng: công trình này chính là sự thực thi những quan điểm văn học tuy thiên lệch, cực đoan nhưng vẫn có những khía cạnh khả thủ, những hạt nhân hợp lý... trong đánh giá một hiện tượng văn học đương thời là phong trào thơ mới đang diễn tiến, chưa đi tới kết cục. Bằng năng lực cảm thụ tinh tế, một thái độ và tấm lòng tri âm, tri kỷ với cái hay cái đẹp của văn chương, Hoài Thanh đã chọn và diễn giải qua những lời bình hấp dẫn, phần tinh túy rút từ hàng vạn bài thơ của hàng trăm người làm thơ, những nhà thơ thực sự có tài năng cùng những thi phẩm có giá trị nhất, tiêu biểu cho phong cách, hồn thơ và giọng điệu riêng của từng người. Với công trình này, người đọc nhận ra bộ mặt đích thực của thơ mới, với những thành tựu nghệ thuật có sức thuyết phục bởi cái hay, cái đẹp, sự tìm tòi nghệ thuật và bản sắc riêng của từng thi sỹ qua các thi phẩm. Từ khi ra đời đến nay, đã 50 năm trôi qua, Thi nhân Việt Nam đã chịu được sự thử thách của thời gian, nó chứng tỏ bản lĩnh của cây bút phê bình trong cảm thụ gây ám ảnh sâu sắc về cách tân của thơ mới về phương diện nghệ thuật của hình thức và giọng điệu thơ, điều mà ngoài Hoài Thanh - người có quan điểm văn chương duy mỹ và "vị nghệ thuật" như vậy, khó ai có thể làm hay hơn được.
Từ sau Cách mạng Tháng 8, Hoài Thanh toàn tâm toàn ý dừng ngòi bút phê bình văn học đã có uy tín của mình góp vào xây dựng nền văn học mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ông đến với Cách mạng rất tự nhiên, "lòng rất vui", "không còn tự giam mình trong những góc trời hiu hắt" nữa, mà thực sự làm một cuộc thay đổi "băng mình vào giữa cuộc sống bao la, kỳ diệu, giữa rừng cây đời mãi mãi xanh tươi". Từng bước một, "bắt đầu hình thành những quan niệm khác về nghệ thuật văn chương", "trải qua nhiều phấn đấu", ông thực hiện kiên trì sự biến đổi tận gốc rễ nhận thức mới về văn học. Sự thay đổi này không phải là một nhát cắt, đoạn tuyệt thẳng thừng với cái cũ trong quan niệm về nhân sinh, về nghệ thuật, mà ở đây là một bước tiếp nối, khắc phục những cái bất cập và phiến diện, chủ quan, duy mỹ ngày trước, nâng cao, mở rộng, đổi mới và hoàn thiện những phương diện khả dĩ của cái cũ. Nói như Hoài Thanh, khi "từ những chân trời xa xôi nào đến với ánh sáng của Đảng" ông đã hiểu được rằng văn chương không chỉ còn là câu chuyện của riêng nó, một mình nó. Quan niệm về văn chương không thể dừng lại ở một cách cảm thụ thuần túy về hình thức biểu hiện, câu chữ, giọng điệu mang màu sắc của "cái tôi" cá nhân, mà văn chương trước hết là câu chuyện của cuộc đời, về cuộc đời và con người. Nghệ sỹ không chỉ say mê, thành thực với riêng mình, cho riêng mình, cốt để bộc lộ bản ngã, bản sắc độc đáo của mình là đủ, anh ta cần phải tìm thấy "cái duyên" của sự gắn bó, hòa nhập (tất nhiên, không vì thế mà đánh mất mình) với cuộc sống bên ngoài, với người đời. Suy nghĩ về nghệ thuật của Hoài Thanh giờ đây là suy nghĩ vươn tới sự rộng mở, hài hòa, từ một chỗ đứng đúng, của một cách sống đúng. Cái nhìn và tư duy về văn chương như vậy vừa hướng nội, vừa hướng ngoại; vừa thấy được cái cốt lõi, lại không xem nhẹ cái đích hướng tới. Văn học không còn khép kín trong một chân trời chật hẹp, biệt lập với những phẩm chất đặc thù và nặng về mặt chủ quan; nó biết bắt rễ sâu vào cuộc sống con người, tìm thấy lý do tồn tại, cứu cánh của mình cuối cùng là nhằm phục vụ cuộc sống, phục vụ con người. Ý kiến sau đây của ông là rất tiêu biểu cho nhận thức hài hòa nói trên: "Mọi thứ nghệ thuật, cái đích của nó phải là phục vụ nhân sinh, nhưng muốn phục vụ nhân sinh cho tốt cũng phải có cái say sưa vì nghệ thuật"(2). Có ai ngờ Hoài Thanh kết hợp được tư tưởng "nghệ thuật vị nghệ thuật" với tư tưởng "nghệ thuật vị nhân sinh" một cách biện chứng, như hai mặt không thể thiếu được để làm thành tờ giấy, thế này!
Sau cùng, một khía cạnh nữa cũng nói lên một cách đầy đủ sự chín mùi trong tư duy về nghệ thuật của Hoài Thanh sau cách mạng. Nếu trước kia, viết về sự thành thực trong sáng tác, ông chỉ lưu ý đến tài năng nghệ sỹ trong khi phô bày một cách hồn nhiên (chỉ biết có mình!) về cái tôi chủ quan cũng như trong nỗ lực xới lật vào chỗ tận cùng sâu thẳm của lòng người muôn thuở, khiến cho người đọc phải ngạc nhiên, sửng sốt vì thích thú, mới lạ: "Phải là người có tài mới có thể đi vào những chỗ cùng sâu trong cõi lòng, vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi đưa phả vào những âm điệu hồn nhiên. Những âm điệu ấy đến tai người đời, người đời sẽ giật mình không ngờ người ta có thể thành thực đến thế"(3)
Thì bây giờ, ông đã thấy nếu sự thành thực chỉ riêng là yêu cầu đối với bản thân nghệ sĩ thôi, thì sẽ là không đủ, anh ta còn cần cả sự thành thật, say mê với sự nghiệp chung, với con người và cuộc đời xung quanh anh.
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài! Vẫn rất cần tài năng và công phu, cá tính sáng tạo và độc đáo, song cũng cần chăm lo không kém về tâm trí, về sự thường trực không suy giảm lòng yêu cái đẹp cái tốt trong con người và trước cuộc đời bề bộn. Lấy ví dụ về thành công của tác phẩm Người mẹ cầm súng (của Nguyễn Thi) và Mẹ Suốt (của Tố Hữu), Hoài Thanh cho rằng ở đây có sự gặp gỡ như được chuẩn bị trước, ở thế tiềm năng giữa nhà văn và nhân vật, với những mảnh đời, chuyện đời "hợp với cái tạng của ngòi bút, khiến các anh có thể nhân đó nói lên những gì mình vẫn hằng ấp ủ, suy nghĩ từ lâu", chứ không đơn thuần chỉ do tài văn, tài thơ của các tác giả(4). Như thế là sự thành thực và cái hay của văn chương có được không chỉ do tài năng, ở cái tâm hướng nội, mà còn là do biết hướng cái chủ quan của mình sao cho rung động, hòa nhịp với con người và cuộc sống bên ngoài, khách quan, dường như là đang chờ sẵn, để nhà văn thi thố sở trường, trút vào tác phẩm tâm huyết, tinh hoa của tình cảm và tài năng.
Có thể nói, quan điểm văn học của Hoài Thanh từ trước cách mạng đến sau cách mạng có sự phát triển, tiếp nối và hoàn thiện. Quan điểm đó nói lên sự nhất quán, trước sau như một, lòng say mê chân thành của Hoài Thanh trong tìm tòi cái hay, cái đẹp, cái tốt của văn chương. Những thành tựu trong nghiên cứu, phê bình văn học của ông từ khi cầm bút đến khi dừng lại ở tuổi 73, chính là do ông trung thành và biết phát triển quan điểm sâu sắc và độc đáo đó. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình kiệt xuất trong thẩm định, bình giá văn chương ở phần tinh tuý, sáng lên những phẩm chất nghệ thuật được sáng tạo bởi những tài năng luôn luôn thành thực và tràn đầy cảm hứng./.
Tháng 3 năm 1992
N.N.T
(TCSH49/05&6-1992)
--------------
(*) Tham luận tại Hội nghị Khoa học nhân kỷ niệm 10 năm mất nhà văn Hoài Thanh, và 50 năm xuất bản Thi Nhân Việt Nam do Viện Văn học chủ trì tháng 3/1992 tại Hà Nội.
(1) Đó là những bài sau:
- VĂN CHƯƠNG LÀ VĂN CHƯƠNG, Tràng an, số 48, ngày 15.8.1935.
- Tiếp theo bài “VĂN CHƯƠNG LÀ VĂN CHƯƠNG", Tràng an số 62 ngày 1.10.1935.
- CHẤM DẤU HẾT CHO MỘT CUỘC BIỆN LUẬN, Tràng an, ngày 29.10.1935.
- MỘT LỜI VU CÁO ĐÊ HÈN, Tràng an, số 80, ngày 3.12.1935.
- MỘT BÀI DIỄN VĂN TỐI QUAN TRỌNG VỀ VĂN HÓA, Tràng an. số 82, ngày 10.12.1935.
Cũng phải kể đến những đoạn trích trong cuốn VĂN CHƯƠNG LÀ HÀNH ĐỘNG (bị thực dân cấm phát hành năm 1936) được đăng lại trên HÀ NỘI BÁO và sau đó trên tạp chí TAO ĐÀN cho đến năm 1939.
(2) Hoài Thanh: NGÀY TẾT ĐỌC THƠ XUÂN (viết 1964). In trong CHUYỆN THƠ_ Nxb Tác phẩm mới, H, 1978, tr. 57.
(3) THÀNH THỰC VÀ TỰ DO TRONG VĂN CHƯƠNG. Tạp chí Tao đàn năm 1939, tr. 504.
(4) Hoài Thanh: DUYÊN THƠ, DUYÊN VĂN (viết năm 1974). In trong CHUYỆN THƠ_ Nxb tác phẩm mới, H. 1978, tr, 253.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...