Quyết ra Kinh khiếu kiện

09:22 20/04/2018

PHẠM XUÂN DŨNG

Từ một hòn đảo hoang vu chưa được nhiều người biết đến, bỗng một ngày đầu thế kỷ 20, Phú Quý được cả người trong nước lẫn người Phú-lãng-sa (Pháp) phải chú ý đến mảnh đất này.

Đảo Phú Quý

Người dân Phú Quý vốn có tiếng hiền hòa, thuần phác đã có vượt biển đi bộ ra tận kinh đô Huế để khiếu kiện. Đây là sự kiện vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đảo Phú Quý qua một trăm năm có lẻ.

KHỐN KHỔ VÌ THUẾ

Trưa nắng chang chang, tôi theo anh Đỗ Châu Thọ, một “thổ địa” Phú Quý, tìm đến nhà của một người có công lớn với dân đảo. Một nhân vật khả kính đã làm chuyện động trời. Trong ngôi nhà cổ khang trang được xây dựng từ năm 1912 ở làng Phú An, xã Ngũ Phụng, tôi thoáng nhìn thấy bức họa chân dung trang trọng trên bàn thờ gia tiên.

“Thưa, bà có phải bà là người nhà ông Bùi Quang Diệu không ạ?” - tôi hỏi. Bà lão nhìn tôi thoáng một chút dò xét rồi trả lời: “Phải, tôi là vợ ông Bùi Uông, cháu nội của cụ Bùi”. Sau vài câu chuyện trò, tôi ngỏ ý muốn tìm hiểu chuyến ra kinh khiếu kiện của cụ Bùi Quang Diệu. Bà Đỗ Thị Phai, cháu dâu ông Diệu, nói ngay: “Hồi tôi mới về nhà này đã nghe chuyện cụ đi ra ngoài Huế, xin thuế cho dân”.

Thời ấy, dân Phú Quý nhiều bề cơ cực. Họ không chỉ gian nan khi phải đương đầu với biển khơi tìm kế sinh nhai, phải chật vật chống chọi với nạn cướp biển mà còn chịu sưu thuế nặng nề do triều đình nhà Nguyễn đặt ra. Ông Đỗ Muộn, bô lão ở làng Triều Dương, xã Tam Thanh kể rằng: “Người nào không nộp thuế thì bị bắt phạt, đánh đập nặng nề, mà nộp cho đủ thuế thì trời ơi là khổ. Không chỉ khổ nhọc mà còn nguy hiểm đến tính mạng con người. Nghe kể lại cũng đã rùng mình”.

Ba thứ thuế mà ông Muộn nói đến chính là: vảy đồi mồi, mắm cá cơm và vải Hòn (đảo Phú Quý) mà tên chữ gọi là bạch bố. Mắm cá cơm thì nhiều nơi có nhưng đặc sản này ở Phú Quý mới là thượng hạng nên vua chúa ưa dùng. Chỉ tội cho dân đảo phải oằn lưng cống nộp mà chẳng biết kêu ai. Còn nhà nghèo ở đảo thì tự dệt vải nộp thuế cho triều đình làm trang phục cho lính tráng. Nhưng cay đắng nhất vẫn là thuế vảy đồi mồi. Muốn tìm được cống vật này, người dân phải ra tận hòn Vích hay còn gọi là hòn Đồi Mồi. Công việc tìm kiếm đồi mồi cực nhọc, nguy nan thật khó lòng diễn tả. Nhiều người dân Phú Quý đã bỏ mạng giữa biển khơi vì săn tìm vật phẩm làm trò tiêu khiển của vua quan.

THẮNG KIỆN

Đang lúc người dân Hòn rên xiết vì các sắc thuế thì xảy ra một chuyện khiến cả đảo như ong vỡ tổ. Số là tàu chiến của người Tây mà hồi đó thường gọi là Phú-lãng-sa (France - Pháp) thình lình ập vào đảo bắt một lúc 50 tráng đinh lên tàu rồi chạy đi mất dạng. Ai nấy hốt hoảng với tin đồn người Tây đem thanh niên Hòn vào làm phu ở Phan Thiết, có khi chở sang nước họ hành hạ, chỉ biết ngày đi mà mù mịt ngày về. Giọt nước đã tràn ly. Dân đảo cấp tốc họp bàn đưa ra một phương án táo bạo chưa từng có. Quyết một phen ra kinh đô để kiện, cho dù nhiều người cho rằng đó là việc làm liều lĩnh, tánh mạng khó bảo toàn. Nhưng ông Bùi Quang Diệu đã quyết thay mặt cho dân đảo ra kinh để kiện.

Ông Bùi Quang Diệu là người giỏi chữ nghĩa, tháo vát lại khéo biện luận, được cử làm “chánh sứ” của dân Hòn. Đoàn của ông gồm những người tâm huyết, gan dạ và nhanh nhẹn trải qua một cuộc hành trình gian nguy 4 tháng trời mới hoàn thành sứ mệnh nặng nề. Dũng cảm, kiên trì và mưu mẹo, cuối cùng họ đã đòi được công lý. Triều đình đã bãi bỏ các sắc thuế nặng nề, người Pháp phải trả lại những tráng đinh mà họ đã bắt cóc, lực lượng lao động trụ cột của đảo về quê hương bản quán. Đó là một dấu son không thể phai mờ trong lịch sử Phú Quý.

Chân dung ông Bùi Quang  Diệu trên bàn thờ ngôi nhà hương hỏa của ông ở đảo Phú Quý, trưởng đoàn ra kinh khiếu kiện và là tác giả “Vè đi Kinh”.

Ông Bùi Quang Diệu sinh năm Tân Dậu (1861) tại Phú Mỹ, xã Ngũ Phụng. Sau chuyến đi kinh về, ông được thăng chức Chánh tổng (thường gọi là Tổng Deo). Ông tạ thế ngày mồng 2 tháng 6 năm Quý Sửu (5/7/1913) hưởng dương 52 tuổi.

THƯỢNG KINH KÝ SỰ MIỀN NAM

Không chỉ thắng kiện, ông Bùi Quang Diệu còn kể lại hành trình gian nan lên kinh thưa kiện bằng bài “Vè đi Kinh”. Bài vè được xem như là một kiểu “Thượng kinh ký sự” của dân đảo Phú Quý. Bà Đỗ Thị Phai nói gia đình đã giữ bản vè này như báu vật, nhưng một sự cố mới xảy ra đã khiến tập thơ này lưu lạc chưa được trả về cho gia chủ. Bà nói bằng giọng rất buồn pha phẫn nộ. Dù vậy nhiều người dân Hòn vẫn nhớ đến tác phẩm. Có người thuộc một đoạn, có người nhớ vài câu.

“Vè đi Kinh” gồm 1282 câu được làm theo thể lục bát là một tác phẩm bằng chữ Nôm của tác giả Bùi Quang Diệu, kể lại cuộc hành trình có một không hai kéo dài suốt bốn tháng trời của người dân đảo Phú Quý đến kinh đô Huế xin miễn bắt xâu, giảm thuế vào năm 1901. Tác phẩm cung cấp cho người đọc nhiều chi tiết hiện thực, sống động về cuộc phiêu lưu trên biển từ Phú Quý đến Huế, cùng nỗi cơ cực trăm bề của người dân thấp cổ bé miệng trước chế độ hà khắc thực dân, phong kiến.

Mở đầu tập thơ chữ Nôm kể: “Tháng sáu, mồng ba, ngày dần/ Bổn điền nhóm lại lạy thần ra đi/ Thuyền vào La Gàn một khi/ Đi qua Thương Chánh xin ghi cho rồi/ Các chức thôi mới than ôi/ Xin ghi đã rồi ta liệu mần răng/ Bây giờ phải kiếm cơm ăn/ Mua sắm mắm gạo vậy thời đem theo”...

Ông Lê Hoàng Kim, 70 tuổi, người làng Hội An, xã Tam Thanh, huyện Phú Quý được coi là người học hành chữ nghĩa ở đảo, cho hay rất rõ chuyện này. Ông còn nói trong đoàn người ra kinh đô Huế năm 1901 còn có mặt cả dân làng Hội An (Quảng Nam). Ông đọc hai câu trong “Vè đi Kinh” cho chúng tôi nghe để chứng minh: “Hội An chẳng phải đơn côi/ Có người tóc trắng như vôi trong bình”.

Ra đến kinh, đoàn dân khiếu kiện thăm dò đường đi nước bước đặng tiếng kêu oan đến tai thiên tử: “Đoái nhìn thấy lố thành đô/ Mênh mông thế giới biết vô hướng nào/ Bây giờ kiếm quán ta vào/ Hỏi thăm cho đặng người nào làm quan/ Cùng nhau đương nói đương bàn/ Quán nhơn mới hỏi việc làng đi đâu/ Đáp rằng tầm lá vạch sâu/ Hỏi thăm quan lớn tới hầu hầu việc dân/ Chúng tôi đã có thuế thân/ Lại còn bắt lính bắt dân làm đàng/ Cho nến tách dặm băng ngàn/ Hỏi thăm ông quán nhà quan chỗ nào/ Quán nhân nghe nói âm hao/ Như kim châm dạ như dao cắt lòng/ Bây giờ tỏ nỗi đục trong/ Chỉ đường làm phước giấu lòng mà chi…”.

Kinh thành Huế nguy nga tráng lệ được bài vè ghi lại với những địa danh: “Đông Ba, Gia Hội hai cầu/ Có chùa Diệu Đế một lầu bốn chuông”.

Người kinh kỳ trong mắt dân xứ Hòn (Phú Quý) được miêu tả: “Nam thanh nữ tú thấy xinh/ Chạnh lòng nghĩ tới gia đình khôn nguôi/…Người Kinh tiếng nói thanh thanh/ Hình dung thanh nhã xứ nào dám đương/ Thấy người nhan sắc mà thương/ Vấn vương chưa đặng vấn vương mối hồng…”. Vào triều đình, đoàn người bẩm báo: “Chúng tôi ở huyện Tuy Phong/ Tỉnh là Bình Thuận ở trong đất liền/ Chúng tôi thôn ở ngoài duyên/ Hướng về hải đảo là miền hòn Lao”. Bài vè cũng đã tố cáo nạn hối lộ ngay ở cửa kinh lúc bấy giờ: “Thầy đội vừa nói vừa cười/ Rằng ai khéo chỉ các người tới đây/ Muốn cho lo đặng việc này/ Bạc lo cho sẵn đem đây trăm đồng”.

Bền bỉ kêu khổ kêu oan đến tới tai vua. Cuối cùng tâm huyết công lao của họ không uổng. Triều đình đã bỏ sưu cao thuế nặng khắc nghiệt cho dân Phú Quý, còn can thiệp với tòa Khâm sứ Trung Kỳ thả 50 dân Hòn bị tàu Pháp bắt đi.

Đoạn kết tác phẩm mừng vui pha lẫn nỗi chua xót, ngậm ngùi: “Trông cho mau sáng ngày ra/ Nhờ ơn bóng hạt kẻo mà lạnh thay/ Mẹ cha con vợ có hay/ Ra đi tính tháng tính ngày mà trông/ Có khi làm cánh làm đồng/ Làm dò làm quế chẳng không đâu là/ Sợ bề một nỗi ở nhà/ Chẳng nghe tin tức lo mà đặng không/ Gối loan nằm dựa mà trông/ Từ ta rời gót như rồng lên mây/ Dường như dao cắt ruột này/ Trong lòng bứt rứt như dây buộc mình/ Sáng mai đi chợ Bao Vinh/ Mua đồ trả lễ thần linh cho rồi/ Cùng nhau đương nói một hồi/ Trả lễ đã rồi ta kíp nhổ neo/ Xét ra nhiều lúc hiểm nguy/ Thân ta thất thế như bèo trôi sông/ Buông lời vái hết cá Ông/ Thuận buồm xuôi gió nước ròng ta ra”...

“Vè đi Kinh” xứng đáng là tập “thượng kinh ký sự” đặc sắc của người dân đảo Phú Quý. Người dân nơi đây coi như tài sản văn hóa, thuộc lòng như người đất liền yêu chuộng “Truyện Kiều” hay “Lục Vân Tiên”. Tập thơ lưu truyền đến hàng hậu duệ. Cháu nội ông là Bùi Uông giữ gìn như báu vật gia truyền.

P.X.D
(SHSDB28/03-2018)

................................
(Theo tạp chí Nghiên cứu và phát triển - Thừa Thiên - Huế số 4 (75) năm 2009)  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀN

    Ngày 3/5/1916, trong khi bên trong Hoàng cung, nhà vua trẻ Duy Tân chuẩn bị xuất cung với những công việc và nghi thức hết sức khẩn trương, nghiêm trang và đầy bí mật, thì bên ngoài Hoàng cung, từ bốn phía, những đội nghĩa binh và các vị thủ lĩnh ở các tỉnh và các vùng lân cận Kinh đô Huế cũng đã bí mật tụ về ứng nghĩa.

  • Nằm sâu hút trong những cánh rừng bạt ngàn với các dãy núi đá cao ngất, nơi chỉ có gió, núi, thú hoang và những tán cây rừng, bản Hoo, thôn A Năm, xã Hồng Vân, huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế) là một thung lũng nằm dưới chân núi A Noong- một nơi gần như biệt lập, "lãng quên” trước phố thị A Lưới ồn ào, náo nhiệt.

  • LÊ QUANG THÁI

    Người xưa chỉ dạy rõ về cách thức viết tiểu sử bằng câu nhớ đời chẳng quên: “Phàm xem nhân vật nên xem về tiểu sử, sẽ thấy nhân vật”(1). Đông phương và Tây phương đều coi trọng việc viết tiểu sử đúng phương pháp, hợp quy cách, nói cho dễ hiểu là viết và dịch tiểu sử theo đúng bài bản quy định của bộ môn này.

  • CHƯƠNG THÂU

    Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ Tĩnh là một người công giáo yêu nước, thông hiểu nho học và là người tiếp thu văn hóa tiến bộ của phương tây sớm nhất ở nước ta.

  • NGUYỄN THỊ MINH THÁI

    Đối thoại với nhà sử học Lê Văn Lan về chủ đề “sự đi đây đi đó”, nhất là sự xuất dương nước ngoài của người Việt, từ xã hội cổ truyền đến xã hội hiện đại, hai chúng tôi đồng thuận: một dân tộc nông dân, sự sống sự chết đều diễn ra trong khung cảnh làng Việt cổ truyền, cả đời lo làm ruộng,“chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” như nông dân Việt, thì rất không muốn nay đây mai đó, chỉ thích yên phận sau lũy tre làng.

  • LÊ THỊ ÁNH TUYẾT

    Hiếu học không chỉ thể hiện ở người học mà còn thể hiện ở vai trò của gia đình, mà trước hết là ở những người mẹ, người vợ, người bà, người chị, người em gái trong nhà.

  • (SHO). Từ 12h trưa nay, 11/10, các cơ quan, công sở bắt đầu treo cờ rủ, cả nước để tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng từ sau 12h hôm nay, nhiều kênh truyền hình đã thông báo tạm ngưng phát sóng cho đến chiều 13/10.

  • (SHO) - Ngày 04/9, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý môi trường du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch.

  • TRƯƠNG SỸ HÙNG

    Là một quan chức được nhà nước bổ nhiệm sau khi thi đỗ cử nhân năm 1876; lại trải qua nhiều địa vị xã hội khác nhau, Cao Xuân Dục đã đúc kết được nhiều thức nhận về việc học hành, thi cử và bước đầu thể hiện khá rõ những quan điểm giáo dục như: trọng thực học hơn là bằng cấp, tinh giản hay mở rộng kiến thức cơ bản về quốc sử cho Nho sinh tùy theo cấp học, tiếp thu vốn cổ văn hóa gia đình nhưng có chọn lọc và đổi mới. Thực học thì kiến thức dồi dào phong phú, khi nhập thế “chăn dân trị đời” theo quan niệm Nho giáo sẽ chủ động, sáng tạo linh hoạt trong thực tiễn, ít khi bị tác động ngoại cảnh.

  • LÊ VĂN HẢO

    Thế kỷ XV - XVI ở nước ta, sau thắng lợi vĩ đại của khởi nghĩa Lam Sơn và của chiến tranh giải phóng dân tộc, đã bước vào một thời kỳ phục hưng mới của nền văn hóa Đại Việt.

  • HOÀNG MINH TIẾN

    Nhắc đến các bậc danh nhân văn chương triều Nguyễn không ai không nhớ câu truyền tụng: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Thế mà cả Tùng Thiện Vương và Cao Bá Quát đều rất quí trọng tài năng thơ Nguyễn Hàm Ninh(1).

  • …Trời chung không đội với thù Tây
    Quyết trả ơn vua, nợ nước nầy.
    Một mối ba giềng xin giữ chặt
    Thân dù thác xuống rạng đài mây.

                      (Trần Cao Vân)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Trước và sau ngày Việt Nam độc lập thống nhất (1975), tôi rất thích bài hát “Người mẹ Bàn Cờ” của Trần Long Ẩn trong Phong trào Đấu tranh đô thị miền Nam.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN Triều Nguyễn đã phạm một sai lầm với ngành sử học là đã tiêu hủy toàn bộ những sách vở, di tích, tư liệu có liên quan đến phong trào Tây Sơn, đặc biệt với người anh hùng dân tộc vĩ đại Nguyễn Huệ - Quang Trung.

  • VIỄN PHƯƠNG Kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ 27-7 Những gì hùng vĩ nhất khi ở lại với thời gian thì sẽ trở thành những dấu mốc tồn tại vĩnh hằng trong lịch sử. Tiểu đoàn 804 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và tự đi vào lịch sử như một giá trị vĩnh cửu. Sứ mệnh lịch sử và sự hoàn thành nó của những chiến sĩ 804 sẽ hiện hữu vĩnh hằng với thời gian.

  • TRẦN ANH VINH(Kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9)Lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất nhằm giải phóng khỏi ách đô hộ thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam thời kỳ cận - hiện đại, Phan Bội Châu là chiếc cầu nối.