NGUYỄN KIM HUỆ
Ảnh: internet
“Dưới bóng hoàng lan” của nhà văn Thạch Lam là một tác phẩm quen thuộc đối với những người yêu truyện ngắn, nhưng lại hoàn toàn mới khi được Bộ Giáo dục Đào tạo đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 10, tập 02, từ trang 46 - trang 51, bắt đầu từ năm học 2022 - 2023. Sự thay đổi mới mẻ này khiến cho nhiều người thích thú, say mê tìm tòi và cũng nảy sinh nhiều trăn trở đối với người dạy, người học khi tiếp nhận tác phẩm.
Điều trên đã khiến tôi yêu Dưới bóng hoàng lan nhiều hơn, càng yêu càng thích khám phá “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường” (Thạch Lam). Đồng thời bản thân tôi cũng muốn có một bài học “trông nhìn và thưởng thức” về sức mạnh quyền năng của người kể chuyện trong tác phẩm. Một sự thưởng thức mới mẻ. Và mới mẻ bao giờ cũng kích thích sự tìm đường để tạo sợi dây đồng cảm, đồng sáng tạo giữa bạn đọc - nhà văn.
Truyện ngắn Thạch Lam vốn dĩ là truyện của những mảnh ghép tâm trạng. Truyện của tâm hồn một người đến với tâm hồn vạn người. Truyện của sự kết hợp giữa thơ và văn xuôi, giữa hiện thực và lãng mạn. Một thứ truyện thơm hương hoàng lan thanh tao được chưng cất từ nỗi đau đời. Điều này góp phần tạo thêm sức mạnh, ban thêm quyền năng để người kể chuyện tự do cất lên những thanh âm trong trẻo giữa bản nhạc đời vốn lắm cung buồn. Đúng như nhận định của Nguyễn Tuân: “Nhiều truyện ngắn Thạch Lam không có chuyện mà man mác như một bài thơ... đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành, mát dịu”.
Và Dưới bóng hoàng lan là một truyện ngắn như thế. Tiếp nhận tác phẩm từ góc độ Quyền năng của người kể chuyện ngôi thứ ba trong tác phẩm Dưới bóng hoàng lan sẽ giúp người tiếp nhận có những trải nghiệm thú vị.
1. Quyền năng tái tạo không gian
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Mọi vật đều tồn tại trong không gian ba chiều: cao, rộng, xa và chiều thời gian. Vậy đồng nghĩa không có hình tượng nghệ thuật nào lại không tồn tại trong một không gian nhất định. Nhưng không gian nghệ thuật đặc biệt ở chỗ, người kể chuyện nhìn sự vật ở một khoảng cách, một góc nhìn cố định, tức là trong không gian.
Việc kiến tạo không gian sáng tạo, độc đáo hay không là tùy thuộc vào chính người nghệ sĩ. Họ là người cho ý tưởng để người kể chuyện làm nhiệm vụ của mình trong từng truyện kể.
Trong Dưới bóng hoàng lan, tôi thấy rõ quyền năng người kể chuyện đang tái tạo một không gian nhà vườn để bạn đọc thưởng thức. Người kể chuyện như đang ngồi nơi chiếc ghế trường kỷ lẳng lặng quan sát từng bước chân của Thanh trở về theo đúng cái kiểu phong cách của Thạch Lam.
Sau cánh cửa gỗ, “men theo con đường gạch Bát Tràng rêu phủ” là khu vườn tràn ngập ánh sáng, màu sắc, hương thơm. Cái hay của người kể chuyện ngôi thứ ba về phương diện này là khả năng tái hiện một không gian rất “trinh nguyên”. Ta có thể nhắm mắt mà hình dung theo bước chân của Thanh tới những vẻ đẹp tự nhiên, “không vướng bụi trần”. Và điều đặc biệt hơn nữa là không gian đó vẫn đẹp, dù vắng lặng, mọi sự chuyển động, đều là “khẽ” như sợ:
Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu
(Xuân Diệu)
Bức tường chạy thẳng vào nhà phải là “bức tường hoa”. Hoa của nắng và cây hòa làm một.
Lá trong vườn phải là “lá tươi non”, “lá rau tươi xanh ngắt”.
Làn gió phải “nhẹ”, nước phải “mát rượi”.
Bóng cây hoàng lan chỉ được phép “lay động”, hương thơm “thoang thoảng”.
Búp hoa lí bé nhỏ cũng “non và thơm”.
Và đất dưới chân “vẫn mát như xưa”...
Liệt kê ra nhiều chi tiết như thế này, chúng ta càng thấy rõ sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế của người kể chuyện. Mọi sự vật trong khu vườn đều hiện lên đẹp, hài hòa và dịu dàng một cách nên thơ đến lạ. “Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến cho Thanh, cả người đọc “vương phải”. Không mạnh mẽ, ồn ào, tráng lệ, tất cả đều be bé, xinh xinh, non tơ. Cái đẹp tồn tại trong khu vườn là “cái đẹp trinh nguyên” (Bùi Việt Thắng). Người kể chuyện hướng điểm nhìn vào một chút tươi non của lá, các giác quan căng tràn đón nhận hương hoàng lan. Đặc biệt vẫn cảm nhận đất dưới chân “vẫn mát như xưa”. Cái mát mẻ của lòng người. Cái mát mẻ của chất quê, hồn quê. Hay cái mát lạnh “rùng mình” của hồn người khi giật mình sống chậm lại để thấy được cả một quãng đời.
Quyền năng người kể chuyện ở phương diện này theo tôi, phát huy được sức mạnh là nhờ có sự trợ giúp của Thạch Lam. Người kể chuyện mang bóng dáng con người Thạch Lam, tâm hồn Thạch Lam “chắt chiu nồng đượm” qua từng hình ảnh, từng chi tiết. Không phải là không gian đầu mùa gió lạnh khiến những cây lan “lá rung động và hình như sắt lại vì rét” (Gió lạnh đầu mùa); không phải là không gian một chiều phố huyện “êm ả như ru” (Hai đứa trẻ); cũng không phải là không gian “sương trắng còn đầy ở các ngõ trong làng... cỏ ướt thoang thoảng bốc lên” (Cô hàng xén), trong Dưới bóng hoàng lan là một không gian trong vắt, xanh tươi. Đó sẽ là không gian mời gọi, là điểm tựa để con người trở về, và cần phải trở về. Vì đó cũng là vườn nhà, cũng là quê hương.
2. Quyền năng nắm giữ thời gian
“Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục, và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai” (Trần Đình Sử). Thông qua thời gian nghệ thuật, người đọc càng thấy được quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Thời gian nghệ thuật trở thành “một nội hàm có tính triết lý”. Thời gian nghệ thuật ngày càng quan trọng bởi vì con người muốn cảm nhận thế giới qua thời gian và trong thời gian.
Để diễn tả bước đi của thời gian trong truyện ngắn, người nghệ sĩ có quyền chọn thời điểm khởi đầu và kết thúc, có thể kể nhanh hay chậm, dồn dập hay khoan thai, chọn độ dài một khoảnh khắc, hay cả đời người,... Tác giả sẽ trao gửi quyền năng điều khiển thời gian đó cho người kể chuyện. Người kể chuyện hạn tri hay người kể chuyện toàn tri sẽ bố trí ma trận ngôn ngữ để thời gian được rọi chiếu, không gian theo đó hiện rõ, nhân vật từ đó chuyển mình vận động theo.
Theo lời người kể chuyện, Thanh về nhà sáng hôm trước và sáng hôm sau lại đi. Người kể chuyện cho người đọc tiếp cận không gian truyện, và các nhân vật trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Hai mươi bốn tiếng, nhưng đôi khi là nơi lưu giữ tâm hồn của cả một đời người.
Cái hay trong tác phẩm, dù là quãng thời gian không dài, nhưng không vì thế mà người kể chuyện rơi vào trạng thái tâm lý hốt hoảng để kéo theo những lời dẫn hối hả. Ngược lại, người kể chuyện thong thả theo từng bước chân, hành động, cảm nhận của nhân vật.
Sáng hôm trước -“trời nắng gắt”,
Đến bể múc nước rửa mặt, Thanh thấy “những mảnh trời xanh tan tác”,
Ngoài vườn,“trời vẫn nắng”,
Nắng soi vào vai hai người,
Đêm ấy...“khi trăng lên”,
Rồi... “sáng hôm sau”.
Thời gian thong dong như người. Dĩ nhiên người kể chuyện đang cố tình lưu giữ từng khoảnh khắc khi Thanh về thăm nhà. Dù một ngày ngắn ngủi, nhưng mỗi phút giây trôi qua sẽ khiến Thanh không bao giờ quên, không thể quên những điều bình dị mà thiêng liêng ấm áp.
Người kể chuyện nhấn mạnh khoảng thời gian trưa trời nắng gắt bao nhiêu thì bên trong khu vườn, nước trong bể mát rượi bấy nhiêu, và mùi hương hoàng lan càng thanh, càng đượm bấy nhiêu. “Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái không khí tươi mát này”.
Người kể chuyện còn cố tình kéo dài thời gian khi bà đi vào nhà, với hàng loạt những hành động quan tâm yêu thương cháu:“săn sóc buông màn, nhìn cháu, xua đuổi muỗi. Gió quạt đưa nhẹ trên mái tóc chàng... bà xuống bếp làm cơm”. Và “tiếng dép nhỏ dần”. Cái tài của Thạch Lam không thể hiện ở những chi tiết lớn lao. Theo tôi, lắng nghe tiếng dép của bà, từ từ, chầm chậm, nhỏ dần, cũng là lắng nghe tiếng lòng mình thương bà biết mấy. Bởi không thương, không nhớ, thì âm thanh ấy chỉ đơn thuần là âm thanh mà thôi.
Và thời gian nghệ thuật như ngừng lại khi Nga nhìn Thanh: “Và nụ cười tươi nở, nàng nhìn lại Thanh, một chút thôi, nhưng biết bao nhiêu âu yếm”. Tôi thích vô cùng thành phần chêm xen ở câu văn này của Thạch Lam. Nga nhìn Thanh, “một chút thôi”. Thời gian “một chút thôi” mà ẩn trong đó bao nhiêu dịu dàng, kín đáo của người con gái. “Một chút thôi” mà quý hơn cả trăm năm hò hẹn. Tôi chợt nhớ đến Kim - Kiều phút đầu gặp gỡ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng như thế: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”.
Phải nói người kể chuyện trong tác phẩm Dưới bóng hoàng lan có một quyền năng vô hạn về thời gian. Dù chỉ có hai mươi bốn tiếng, nhưng tình cảm giữa Thanh với bà, giữa Thanh với Nga, hay Thanh với khu vườn, căn nhà đều êm dịu, giăng mắc nhẹ nhàng từng chút. Đó là thời gian của hiện tại, là thời gian ký ức, và cũng là thời gian vĩnh cửu nâng đỡ con người lớn lên, bay xa.
3. Quyền năng toàn tri nhân vật
Bản chất truyện Thạch Lam vốn không có cốt truyện, không kịch tính cao trào. Truyện Thạch Lam là những mảnh ghép tâm trạng. Dưới bóng hoàng lan cũng không ngoại lệ. Truyện ngắn này là bức tranh tâm trạng của nhân vật Thanh, từ khi chàng khẽ mở cánh cửa gỗ bước vào nhà cho đến sáng hôm sau chàng lại đi.
Quyền năng cao nhất của người kể chuyện ngôi thứ ba được bộc lộ. Người kể chuyện biết hết từ ngoại cảnh đến tâm can nhân vật. Sự thấu suốt đôi khi đồng hiện cùng nhân vật. Lời người kể chuyện hòa nhập cùng lời độc thoại nội tâm nhân vật. Dòng chảy tâm trạng nhân vật vì thế trở nên tường tận và phức tạp hơn nhưng lại truyền tải chính xác cảm xúc của nhân vật trước mọi vật, mọi việc.
Đây là điều đặc biệt không phải nhà văn nào cũng làm được. Chính Thạch Lam từng xác nhận: “Người ta sinh ra là nghệ sĩ hay không, chứ không thể có học tập mà thành được. Muốn cố sức tìm hiểu thế nào cũng không bằng cái trực giác nhiệm màu của nghệ sĩ”. Chính vì vậy, đa số các nhân vật của nhà văn này thường nhận biết thế giới xung quanh và giao hòa với tâm hồn người khác chủ yếu nhờ cảm giác, thông qua cảm giác. Đọc truyện ngắn Dưới bóng hoàng lan, ta thấy tần số người kể chuyện diễn tả cảm giác của Thanh dày đặc.
Chàng thấy mát hẳn cả người,
Chàng cảm thấy chính bà che chở,
Chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ,
Thanh cũng thấy bình yên và thong thả,
Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm,
Thanh thấy quả tim đập nhẹ nhàng,
Chàng vẫn bé quá và lại đi xa.
Trong những khoảnh khắc này, lời người kể chuyện cũng là lời độc thoại nhân vật. Sự đồng hiện giúp cho mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật chân thật và rõ nét, dòng chảy câu chuyện không kịch tính nhưng lại da diết, miên man khiến người đọc thấy thấm.
Đây là lời của người kể chuyện? Hay là lời của người bà? Lời của Thanh? “Bà yêu thương cháu quá, giờ chỉ có mình cháu, với mình bà”. Đọc lên sao chính ta cũng thấy rơm rớm nước mắt. Vì câu văn “thật” quá. Hay trường hợp này, lời người kể chuyện, nhưng cũng là lời của Thanh khi nói về Nga: “Hai bàn chân nhỏ, lấm tấm cát, để dấu tự ngoài ao trở về...”. Chàng Thanh phải nhớ nhiều, mới nhớ kĩ từng chi tiết nhỏ về Nga như vậy. Câu văn chia tách thành nhiều vế nhỏ, tường tận và khéo léo thể hiện được tình cảm của Thanh.
Cả những đoạn thoại nhỏ giữa các nhân vật cũng chứa đựng tâm trạng. Khi bà Thanh hỏi chuyện hoa còn non sao lại hái sớm, Nga đã trả lời bằng một câu có hàm ý kín đáo: “Anh con hái đấy ạ” kèm theo cái nhìn hướng về Thanh. Câu trả lời của Nga đã hé lộ tình cảm mới chớm e ấp giữa nàng và Thanh. Người kể chuyện không ngại ngần cho người đọc thấy được tình cảm của đôi trẻ, bằng lời nói: “Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá”, bằng cảm nhận: “Thanh thấy mái tóc Nga thoang thoảng thơm như có giắt hoàng lan”, bằng cử chỉ: “Thanh dắt nàng đi xem vườn” (Đáng lý ra Nga hay qua thăm vườn thì nên dẫn Thanh đi dạo chứ). Cái duyên dáng của Thạch Lam chính là những cách viết như thế. Thường những gì diễn ra trong nội tâm của con người, người ngoài không biết được. Nhưng ở lời kể ngôi thứ ba toàn tri, những vui buồn, nhớ thương của nhân vật vẫn nói ra tường tận. Đó chính là biểu hiện quyền năng có vẻ không giới hạn của người kể chuyện ngôi thứ ba.
Kết thúc tác phẩm, người kể chuyện như đồng cảm cùng Thanh. Những dòng chảy tâm lý được thể hiện “nửa buồn mà lại nửa vui”. Buồn vì chia xa. Nhưng vui vì Thanh có một nơi chốn bình yên để về, một người để thương nhớ, và một người vẫn đang nhớ thương mình. Hình ảnh cuối truyện thật đẹp: “Mỗi mùa cô lại giắt hoàng lan trong mái tóc để tưởng nhớ mùi hương”. Thạch Lam không tạo ra tình huống Nga có mặt tiễn đưa Thanh lên tỉnh. Ngược lại chỉ là lời nhắn: “Bảo tôi có nhời chào cô Nga nhé”. Thanh nhờ bác Nhân nhắn cho Nga. Nhưng Thanh cũng đang nhờ gió, nhờ vườn, nhờ hương hoàng lan giữ hộ Nga. Và Nga cũng nhờ mùi hương ấy mà kéo Thanh một ngày khác sẽ lại trở về.
Người kể chuyện toàn tri vừa dịu dàng, vừa yêu thương cả Thanh và Nga. Giọng điệu lời kể trữ tình, và dịu ngọt. Người kể chuyện là chứng nhân cho cuộc tình đôi trẻ. Còn cây hoàng lan, mùi hương là kỷ vật của hai người.
Có thể nói, nét đậm đà trong truyện ngắn này là nét đẹp về đạo đức, văn hóa từ văn bản thông qua lời người kể chuyện. Dù ở bất kì đâu, nhà vẫn là nơi để ta về, và cần phải về. Vì đó là cội nguồn, là gia đình, là quê hương. Tình cảm của Nga và Thanh cũng là bài học cho giới trẻ về những rung động đầu đời, cần nâng niu, cần ứng xử tinh tế. Tình cảm bà và Thanh giáo dục chúng ta lối sống yêu thương, có trách nhiệm với gia đình.
“Truyện ngắn là một truyện viết rất ngắn gọn, trong đó cái không bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường, và cái bình thường hiện ra như một cái gì không bình thường” (Paustovsky). Ý kiến trên tôi thấy hoàn toàn đúng khi đọc Dưới bóng hoàng lan. Bởi những điều bình thường trong tác phẩm này lại có sức gợi và khả năng kết nối từ tác phẩm đến cuộc đời rất nhiều.
Ẩn đằng sau những con chữ, là tiếng lòng dạt dào cảm xúc của tác giả về thiên nhiên, gia đình, con người...
Ẩn đằng sau những con chữ, là các giá trị đạo đức và văn hóa của dân tộc thêm một lần được tôn vinh...
Ẩn đằng sau những con chữ, là bài học về tình yêu thương, lối sống trách nhiệm, hài hòa với thiên nhiên...
Ẩn đằng sau những con chữ, là bao điều bình thường trở nên “không bình thường”, cứ vấn vương người đọc, ma mị người đọc như tơ, như hương, như gió, nhẹ nhàng, thanh khiết.
N.K.H
(TCSH411/05-2023)
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.
LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH