Phù sa châu thổ

16:11 24/12/2012


NGUYỄN MINH KHIÊM

Ảnh: internet

Phù sa châu thổ


Mẹ ra sông giặt tã lót của tôi
Rũ thời gian đỏ ngàu mặt sóng
Hạt phù sa roi rói hồng cầu
Tôi đứa trẻ nhập vào châu thổ

Tôi đã quen bị mê hoặc bởi đỉnh cao của những ngọn đồi, ngọn núi
Nhưng trong hạt phù sa châu thổ này có vô vàn đồi núi
Tôi đã quen ngợi ca sức mạnh của những cơn giông cơn bão sóng thần
Nhưng trong mỗi hạt phù sa châu thổ có bao nhiêu giông bão sóng thần

Châu thổ tuổi dậy thì
Màu sữa non ướt những cánh buồm
Châu thổ hình mắt lưới
Phù sa hình mắt lưới
Rơm rạ mắc vào kéo lên cả nghìn năm
Phù sa nhiều hát xẩm hát xoan
Vỗ mặt ruộng rung từ thời tiền sử
Phù sa nhiều tiếng võng tiếng nôi
Chạm lời ru mọi làng quê thao thức
Phù sa nhiều nước mắt mồ hôi
Nhấp một chữ mặn bao nhiêu chuyện kể

Những hạt phù sa không bao giờ cũ
Ngực vú căng ngồn ngộn trước đại dương
Như ngày nào cũng có trẻ sơ sinh
Cả châu thổ trắng trời tã lót
Qua nghìn tuổi vẫn chưa cắt rốn
Mai An Tiêm đỡ ngoài hoang đảo
Chúa Thượng Ngàn đỡ phía rừng xanh
Thổ địa thổ công đỡ chỗ đầu rau ông bếp
Các vua Hùng đỡ bằng năm mươi người con theo cha xuống bể;
năm mươi người con theo mẹ lên rừng
Nhân dân nghìn đời đỡ bằng xương máu

Quả ớt quả chanh để ngoài câu mời quan họ
Những gốc đa đội nón ba tằm
Những gốc đa mặc áo tứ thân
Những gốc đa têm trầu cánh phượng
Những gốc đa tát nước bên đình
Con trâu cái thừng bão không quật nổi

Rũ thời gian đỏ màu nước ối
Châu thổ chưa bao giờ cắt rốn
Cửa sông quằn lên những cơn đau bật máu
Tôi nhận ra mình - một tinh thể phù sa.


(SH286/12-12)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương

  • Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất

  • Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác

  • Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy

  • Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh

  • HỒNG NHUChiếc tàu cau                        (Trích)

  • Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật

  • LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.

  • LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…

  • Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.

  • L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.

  • Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)

  • Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.

  • ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi