Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.
Ảnh: internet
Dưới đây là phỏng vấn của Huy Tập với ca sĩ Hoàng Nguyễn.
Huy Tập (HT) - Xin chúc mừng thành công của anh. Chương trình thanh nhạc thính phòng vừa qua đã cho nhiều người một ấn tượng tốt đẹp về anh, về nhạc kịch ô pê ra. Anh vui lòng cho biết cảm nhận của mình sau đêm diễn ấy.
Hoàng Nguyễn (HN) - Tôi thật sự xúc động trước thành công của đêm diễn. Khán giả là những người có kiến thức nhất định đã cùng tôi say sưa suốt cả chương trình. Tối về tôi mệt nhoài, nhưng do quá phấn chấn nên không sao ngủ được. Tôi vui vì ở Huế mình cũng có nhiều người am hiểu và hứng thú ca nhạc thính phòng, đây là mầm sống là giọt vui cho những người biểu diễn nhạc kịch ô pê ra, cho cách hát "bác học" tinh hoa của thế giới trên cố đô Huế chúng ta. Tuy nhiên tôi lấy làm tiếc vì "sân khấu" không đảm bảo thông số kỹ thuật, nên ô pê ra còn bị "ra đi" nhiều. Ước gì ở Huế, một trung tâm văn hóa lớn của cả nước có một phòng hát kịch ô pê ra thì thật là có ý nghĩa.
HT - Đêm biểu diễn thính phòng đó là đêm đầu tiên khai trương cho một phong cách diễn, một trường phái ca nhạc. Anh hiểu ý nghĩa đêm diễn thế nào?
HN - Vì là buổi diễn ô pê ra đầu tiên nên tôi rất lo. Đến khi diễn xong tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Từ lâu tôi vẫn tiếc vì ô pê ra không được ra mắt chào Huế sớm hơn. Tôi tin rằng đến một ngày nào đó người ta sẽ quay về tìm lại cái lối diễn tư duy - bác học.
HT - Anh có nghĩ rằng phần đông khán giả còn rất xa lạ với ô pê ra không?
HN - Tôi biết, không riêng ở Huế mà là cả nước, ở cả Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, trường phái ô pê ra bác học chưa giành được vị trí xứng đáng, nhiều nơi bị bỏ quên. Nhưng, không phải vì thế mà tên tuổi những ca sĩ ô pê ra nổi tiếng bị lãng quên. Các anh các chị như Trung Kiên, Lô Thanh, Quốc Trụ, Thanh Trì, Thuý Liễu, Quý Dương... và chúng tôi là những lứa sau như Lê Dung, Quang Thọ, Quang Huy... vẫn đã và đang có những đóng góp quan trọng ở trong nước và một số nước khác trên lĩnh vực này.
HT - Có người nói rằng "ta giàu âm nhạc quá". Tôi tự thẹn. Nhưng anh xem, âm nhạc tràn vào ta xô bồ quá, vàng thau chộn rộn. Các nhạc phẩm đủ mác hiệu, các ca sĩ theo nhiều trường phái cùng đua nhau ra sàn diễn tranh tài. Quả là người ta nói cũng chẳng sai. Ô pê ra sẽ thích ứng với cuộc tranh tài này thế nào?
HN - Âm nhạc tồn tại được vì có khán giả. Âm nhạc kiểu gì thì cũng có kiểu khán giả của nó như thế. Công phá của nó thế nào còn do xu thế thời đại hướng đạo. Riêng âm nhạc ô pê ra như một trái tim con người đích thực, không cần mặc áo, không cần tô son trát phấn. Con tim ấy càng lớn lên, càng khỏe lên khi tri thức con người ngày càng tốt đẹp, ngày càng gần với thiên nhiên cội nguồn hơn. Bây giờ nếu như ở Huế ta, một đêm ca nhạc thính phòng, chừng 50 khán giả đến xem cũng đã là một niềm vui đáng trân trọng rồi.
HT - Tôi muốn hỏi anh sang khía cạnh khác một chút. Ở Huế và rất nhiều nơi khác có rất nhiều ca sĩ không qua đào tạo nhưng biểu diễn rất ăn khách. Là một giảng viên thanh nhạc, anh cho biết nhận thức của mình.
HN - (Suy nghĩ) Quả là như vậy. Một số ca sĩ được trời phú cho giọng hát tốt, có năng khiếu âm nhạc, lại được sự săn đón của khán giả ca nhạc xu thời, nên rất nổi tiếng. Tuy vậy, tôi cho rằng sức sống của giọng hát sẽ không bền, tuổi tác và thị hiếu kiểu mốt âm nhạc sẽ thải loại. Mặt khác vì không có học, không có nghề nên việc xử lý tác phẩm "khó" thường là không đạt, phần lớn rơi vào tẻ nhạt hời hợt. Cuộc thi giọng hát hay "giai điệu tháng 3" vừa qua, Huế ta không có giọng hát giải A, cũng một phần nguyên do là ca sĩ không có học về kỹ thuật thanh nhạc.
HT - Anh sẽ tiếp tục truyền thụ kỹ thuật hát cho sinh viên như anh đã hát chứ?
HN - Vâng. Tôi sẽ dạy như vậy.
HT - Nhưng tôi thấy, nhiều học trò của thầy cách hát không như thầy.
HN - Đúng. Nhà giáo chúng tôi chỉ dạy cho sinh viên phương pháp xử lý, cấu trúc âm thanh đẹp làm tiền đề để duy trì giọng hát, cách hát. Còn việc hát có hay không lại thuộc về xử lý tác phẩm, và sự rung động tâm hồn nữa. Con tim của trò thì thầy không thay thế được.
HT - Xin hỏi câu hỏi cuối cùng - Đời sống của anh hiện nay ra sao.
HN - Nghèo, khó khăn thiếu thốn lắm. Chỉ có "Lương" thôi.
HT - Cám ơn anh đã giúp tôi thực hiện bài phỏng vấn này. Chúc anh và thanh nhạc ô pê ra thính phòng sẽ thường xuyên "vào ra" với Huế.
HUY TẬP thực hiện
(TCSH47/01&2-1992)
Nhạc và lời: NGUYỄN VĂN VŨ
TÔN THẤT BÌNH
Nếu dân ca là suối nguồn cảm hứng của nhân dân lao động trong cuộc sống thì hò là phương thế thể hiện tâm tình tràn đầy xúc cảm một cách trung thực nhất.
VĂN CAO
Hồi ký
Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.
TÂM HẰNG NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Tin từ Làng Mai Pháp quốc cho biết: Đêm giao thừa Thầy nói về Phạm Duy cho khoảng 70 cháu sinh viên Việt Nam về thăm Làng. Bài giảng này cũng là một loại hommage(1) cho Phạm Duy. Có thể nghe lại trên mạng chỗ Pháp Thoại online của Thầy vào ngày 30 Tết vừa rồi.
Trưa ngày 27/01/2013, cây đại thụ của làng nhạc - Nhạc sĩ Phạm Duy – đã qua đời, hưởng thọ 93 tuổi. Nhạc sĩ Phạm Duy có số lượng tác phẩm âm nhạc đồ sộ, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng. Khi còn sống, nhạc sĩ Phạm Duy cũng thường xuyên cộng tác với Tạp chí Sông Hương. Chúng tôi xin đăng lại bài viết cuối cùng của nhạc sĩ đã gởi cho tòa soạn trước khi mất và đã được đăng trên Sông Hương số Tết Quý Tỵ 2013, như một nén hương tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa.
“Đời là những cơn mưa vô thường/ Trói chân em bên đường/ Nước dâng cao chân tường/ Đường xa chân ướt phơi nắng dầm sương”...
NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI
Trong ý niệm của nhiều người từ hạng trí thức cao cho đến bình dân, ngoại trừ dân nghiên cứu dân tộc nhạc học, hát xẩm là một thể loại âm nhạc có xuất thân thấp kém, luôn gắn liền với hình ảnh của người khiếm thị và cây đàn nhị từ góc phố, sân đình hay bãi chợ. Nhắc đến hát xẩm, đa phần người ta liên tưởng ngay đến những ca từ mộc mạc, dung dị và lắm khi dung tục.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đêm giới thiệu Trường ca Hàn Mặc Tử, tại Học viện Âm nhạc Huế thầy Trần Văn Khê và nhạc sĩ Phạm Duy đã đưa chúng ta đi từ cõi thực mộng mơ trải qua những đau đớn, vật lộn với cơn đau đến ngất lịm và cuối cùng nương tựa vào niềm tin tâm linh để hiện hữu.
TRƯƠNG ĐÌNH NGỘ
Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi đời trăng mọc nước Huyền Vi
Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cữu tề phi
Cao cao vượt hai hàng bóng vía
(Bản dịch của Trương Đình Ngộ)
NGUYỄN THỤY KHA
Có thể nhận ra sự giao hòa giữa nhiều chiều cảm xúc trong quá trình thai nghén bài hát "Thiên Thai". Song có lẽ cái lớn nhất, cái bao trùm, cái gốc để tỏa ra sự tràn trề giai điệu của bài hát này chính là sự phản ảnh có thực của một dòng sông nào đó.
ĐẶNG TIẾN “Bộ môn” Thơ đang lùi bước trong xã hội hiện đại. Đời sống đô thị nhanh bước theo nhịp tiến hóa của công nghiệp, đẩy lùi biên độ của thơ: kỹ thuật hiện đại cung cấp cho quần chúng - nhất là thanh niên - những phương tiện giải trí và truyền thông hấp dẫn và nhanh chóng hơn những bài bản vần vè trước đây - dù sao cũng gắn liền với nếp sống nông thôn.
NGUYỄN HOÀN Nhân kỷ niệm 10 năm ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn về cõi thiên thu 1/4 (2001-2011), Nhà xuất bản Trẻ xuất bản cuốn sách “Thư tình gửi một người” tập hợp hơn 300 trang thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi Ngô Vũ Dao Ánh, người tình có ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu bền trong cảm hứng sáng tạo âm nhạc của nhạc sĩ.
DƯƠNG BÍCH HÀDân tộc Tà Ôi, cũng như các dân tộc cư trú dọc Trường Sơn, âm nhạc là một bộ phận thiết yếu trong đời sống văn hóa của họ, nó không chỉ mang chức năng giải trí đơn thuần mà gắn liền với tín ngưỡng, với đời sống tâm linh, là phương tiện để tiếp xúc với thần linh.
NGUYỄN THỊ HỒNG SANHNgười ta gọi Trịnh Công Sơn là “sứ giả tình yêu”, “người tình của mọi thế hệ”, nhưng có lẽ chức danh “con người thi ca” mà nhạc sĩ Văn Cao yêu mến dành tặng cho ông là phù hợp hơn cả.
TrẦn thỊ AnCho đến nay, ca trù vẫn là một thể loại văn chương âm nhạc rất xa lạ với đông đảo đại chúng. Trong ấn tượng chung, ca trù là một sinh hoạt âm nhạc trước hết gắn với lễ lạt của các ông hoang bà chúa hay các miếu đền, sau nữa là thú ăn chơi ở dinh quan, thậm chí trở nên sa đọa và trụy lạc nơi ca quán.
NGUYỄN THỤY KHATừ sau "Đề cương văn hóa" của Đảng ra đời năm 1943 sáu chữ "Dân tộc - khoa học - đại chúng" đã trở thành tâm niệm của những chiến sĩ cách mạng làm công tác văn hóa. Song ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, rồi cả dân tộc bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến thì cho đến trước chiến dịch Điện Biên, chữ "Dân tộc' trong "Đề cương văn hóa" vẫn chỉ được các nghệ sĩ khai thác ở những vốn cổ của người Kinh, trong đó có nghệ thuật âm nhạc.
NGUYỄN THỤY KHATrong hai đêm 2 và 3.06.2004 tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội đã diễn ra chương trình hoà nhạc của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam dưới sự chỉ huy của Giáo sư - Nhạc trưởng người Anh Colin Metters - Cố vấn âm nhạc và nhạc trưởng hợp tác chính của Dàn Nhạc Giao Hưởng Việt Nam trong dự án 5 năm nhằm củng cố và phát triển dàn nhạc lên ngang tầm quốc tế.
VĂN THAO... Tôi tập tễnh bước một leo lên cầu thang ngôi nhà số 108 phố Yết Kiêu vào một ngày giáp tết năm 1976. Đã sang tiết xuân, trời nắng nhẹ mà vẫn lạnh. Tiếng đàn dương cầm vọng ra. Một điệu vans. Giai điệu của bản nhạc mượt mà, lấp lánh như những hạt nắng xao động trên vòm cây. Một giai điệu mà tôi chưa nghe bao giờ.
MẶC HY Hồi kýThế là tôi và Lê Lự, mấy đêm nay, lại được nằm chỏng khoèo trên mấy tấm ván nóc chuồng trâu nhà mẹ An tại Khe Giữa để đón một cái Tết thứ hai ở chiến khu Ba Lòng.