HOÀNG THỤY ANH
“Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.
Ảnh: internet
Đề tài “Đá” của Đỗ Thành Đồng mở rộng, thể hiện cái nhìn đa chiều, đa sắc trước cuộc sống. Vấn đề dù nhỏ, vụn vặt, thậm chí tầm thường đều đi vào thơ anh, mà ở các tập thơ trước chúng ta ít có cơ hội chứng kiến. Chuyện cái áo anh đang mặc, hòn đá, con giun kim, tiếng hú của xe cấp cứu, tiếng mọt, tiếng chó sủa, chuyện làm đĩ, người đàn bà góa, kẻ bán hàng rong, cho đến bức tranh, hoa ngày tết, bức di chúc của Cha,... là sân chơi của “Đá”. Với những đề tài này, thơ Đỗ Thành Đồng đã bắt nhịp với đời sống thơ đương đại, đồng hành với bề bộn, xô bồ của cuộc sống. Nếu “Rác”, Rỗng”, “Xác” còn “loay hoay” nhiều trong cõi mơ thì đến “Đá”, những gì lãng mạn hầu hết bị tước bỏ, chỉ còn lại hiện thực trụi trần, ngổn ngang như chính gương mặt cuộc sống hiện tại. Cái nhìn đổi thay này của Đỗ Thành Đồng theo tôi hoàn toàn hợp lí, phù hợp với hướng đi của thơ ca hiện nay.
Thơ là nơi chốn trú ngụ của nỗi lòng. Bất kì một thi sĩ nào khi đặt bút làm thơ, không thể không có những vần thơ viết về chính cuộc tình của mình. Hẳn nhiên, tình yêu trong thơ, khi đi qua lăng kính của chủ-thể-thi-sĩ đã được thi vị hóa, hình tượng hóa. Và thơ tình của thi sĩ nào cũng ít nhiều bày tỏ những trạng huống cô đơn. Viết về tình yêu, Đỗ Thành Đồng luôn hiện diện là một kẻ cô đơn. Anh cô đơn từ “Rác”, “Rỗng”, “Xác”. Anh tự xem mình là kẻ “có nỗi buồn trăng mười sáu”. Ý tưởng “ngày cô đơn nở hoa” từ tập thơ trước nay vẫn tiếp tục sinh sôi. Nhưng nỗi buồn “Đá” đa mang hơn: “có những nỗi buồn quá ngon/ có những cô đơn quá đẹp” (Ngẫm). Sự đổ vỡ trong tâm hồn cùng với sự rạn nứt của đời sống làm nên thế giới của “Đá”. Một thế giới tổn thương nhưng rắn rỏi, xù xì nhưng ấn tượng, vụn vặt nhưng lớn lao, khổ đau nhưng phập phồng sự sống: “cuộc đời này như một sợi dây/ để vậy thì tuột/ thắt nút dễ đu// xin về nghe lại lời ru/ gừng cay muối mặn/ vẫn chưa nhạt nhòa” (Ngẫm).
Hiện thực trong thơ Đỗ Thành Đồng khi được soi chiếu qua điểm nhìn của một cái tôi phân rã (tôi tự soi mình trước gương, nhận thấy qua gương một cái tôi khác), tạo dựng thêm một thế giới hiện thực cho “Đá”. Lúc này, cái tôi của thi sĩ vừa hiện hữu trong cái thế giới xô bồ vừa cùng lúc sống với chính tiềm thức, vô thức của mình. Với hình thức tự soi ngắm mình, Đỗ Thành Đồng dựng lên hai mặt của thực tại ngay trong tập thơ “Đá”. Hiện thực gồ ghề mà anh tạo ra, thực ra, chỉ là hiện thực tạm thời, là một nước cờ tạm bợ. Hiện thực anh muốn hướng đến, chính là hiện thực được cất lên từ mạch ngầm vô thức trái tim anh. Thì ra, những mảnh vỡ, đứt rời của thực tại chỉ để dắt díu nhau làm nên ngôi nhà tinh thần của cái tôi chủ thể Đỗ Thành Đồng. Yếu tố vô thức trong “Đá” đa phần ở dạng đối thoại với bản ngã: “anh là ai anh sống để làm gì/ sao không là tiếng côn trùng bản năng/ sao không là bước chân mộng du/ sao không là vọng phu hóa đá” (Ai); hoặc “đã có lúc tôi muốn đổ đi/ những mùi hương cong cớn/ và nhiều khi tôi muốn đập vỡ/ những tiếng chim rúc rích trong người” (Buồn). Đọc những câu thơ trên, chúng ta thấy “Đá” có tính chất song trùng trong đối thoại: đối thoại với cái tôi và đối thoại với cuộc sống. Với hình thức đối thoại nước đôi này, Đỗ Thành Đồng dễ dàng chất vấn cuộc sống hơn. “Kẹt” là một ví dụ: “và từ đó tôi hay nằm mơ/ những cái bóng trùm lên đôi mắt giữ chặt tay chân/ tôi cảm thấy bị tước đi cái quyền vùng vẫy/ nhưng không biết đó là ai”.
Hiện thực tác động đến thi sĩ, thi sĩ khám phá hiện thực qua điểm nhìn (ý thức và vô thức) của mình. Do đó, hiện thực trụi trần, bất trắc cũng chính là hiện thực cõi lòng của thi nhân. Đỗ Thành Đồng mắc kẹt trong chính con người của mình nghĩa là anh cũng đang mắc kẹt (không có tự do) giữa cuộc sống này. Góc cạnh của hiện thực được phơi bày qua tiềm thức, vô thức của anh không chỉ giúp anh xoáy sâu vào mặt trái của hiện thực mà còn đưa người đọc đến với thế giới hiện thực của tâm linh. Dùng vô thức soi sáng ý thức (thế giới hiện thực), đây là hướng đi riêng của Đỗ Thành Đồng, so với các nhà thơ cùng thế hệ anh ở Quảng Bình. Sự tưởng tượng khéo léo tạo nên nhiều ý thơ hay cho tập thơ “Đá”:
nước mắt chảy dài từ mặt trời
cỏ rạp mình dưới đá lời ru ngọn lửa lá đa
bão giông gồng mình thin thít
(Tang)
Lối viết của Đỗ Thành Đồng trong “Đá”, như thế, tự do, mạnh bạo, dấn thân hơn. Đỗ Thành Đồng khám phá chính mình thông qua cấu trúc tự xưng “anh là”, hoặc cấu trúc câu “anh” làm chủ ngữ, như một sự khẳng định cái tôi bản ngã của mình, đồng thời, như là một lời sẻ chia, tâm tình với bạn đọc. Tâm thế của anh không bị ràng buộc bởi hiện thực bòng bong ấy. Đây là điểm nhấn của “Đá”. Anh là anh. Anh đau với chính anh. Anh quăng quật anh với cuộc sống. Anh không cố trút bỏ nỗi buồn đau, nỗi cô đơn ra khỏi con người mình. Bởi lẽ, chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép (Chế Lan Viên). Dẫu xót buốt, Đỗ Thành Đồng vẫn kiên định đau với đời, với thơ:
anh vẫn vắt vê con chữ
trong veo giọt đau
(Vắt)
Một tập thơ, không tránh khỏi những thiếu sót. Nhưng những gì mà Đỗ Thành Đồng nỗ lực đã mang đến làn gió mới cho thơ mình, chí ít, tránh lặp lại chính mình. Với “Đá”, anh vừa mạnh mẽ, cứng cõi như đá, vừa giữ cô đơn để nở hoa những câu thơ.
H.T.A
(TCSH368/10-2019)
------------------------
(1) “Đá”, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2019.
(2) Những tập thơ của Đỗ Thành Đồng.
ĐỖ THÀNH ĐỒNG
Ai
Đêm dài ánh mắt
liếc vào thăm thẳm cô đơn
từng câu thơ rón rén nhân tình
tiếng côn trùng quết tiếng thở
anh là ai anh sống để làm gì
sao không là tiếng côn trùng bản năng
sao không là bước chân mộng du
sao không là vọng phu hóa đá
kiếp làm người không cứu nổi trái tim
nụ hôn cũng lang thang cơ nhỡ
một ngàn năm một triệu năm nức nở
những câu thơ vẹt mòn
anh là tôi
ta sống để làm gì
là cái bóng của tham si cuồng hận
đời cứ dài vô tận
đêm liếc mắt âm thầm.
Buồn
Những đám mây ác tính cõng nhau
bờ gai xương rồng khép nép
con cóc nghiến câu thơ sưng tấy
cây si già lơ ngơ
tôi hứng nỗi buồn đổ mái hiên
không một giọt máu đào cảm xúc
những thói quen thành rác
chất đống và bốc mùi
tôi vẫn quen làm việc hàng ngày
của một kẻ tung hoa và
như buổi chiều hôm nay quét dọn
nỗi buồn phân hủy chân trời
đã có lúc tôi muốn đổ đi
những mùi hương cong cớn
và nhiều khi tôi muốn đập vỡ
những tiếng chim rúc rích trong người
cứ tưởng là tôi không dám
nếu như không có một ban mai
tôi nhận ra mình trống rỗng
nỗi buồn hạ thổ.
Cha
Tiếng biển đêm vỗ vào hương khói
trong con
hạt muối mồ hôi Cha ngọt chát
tấm lưng còng
nấm mộ
chia tháng ngày từng hạt gạo
bùn non tóc gầy
lũ đói ngập giấc ngủ
bước chân dựng đứng
giữa những ngày mặt trời mọc ngược
Cha thắp đèn nước mắt
ba mươi tết cúng tổ tiên chén nước
để dành cút rượu biếu thầy dạy con
nếp nhăn cuộc đời Cha để lại
trong con chữ về đêm
tiếng gà gáy câu thơ nức nở
Cha cười cho nắng mới lên
luật thừa kế không chia đều trí tuệ
di chúc Cha chỉ mỗi chữ đức
con là đứa tham lam ích kỷ
vơ về mình nghiệp chướng thi ca
thi ca ngày càng rẻ rúng
nghĩa tình ngày càng khan hiếm
cơm gạo ngày càng thừa mứa
nhớ Cha con cúng giỗ đời
thơ.
MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.
NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!