Nỗi khát thèm cô đơn

15:05 05/12/2019

HOÀNG THỤY ANH

“Đá”(1) là tập thơ thứ 5 của tác giả Đỗ Thành Đồng. Điểm xuyết, vấn vương một chút dáng dấp của “Rác”, “Rỗng”, “Xác”(2), nhưng thần thái của “Đá” đã khác.

Ảnh: internet

Đề tài “Đá” của Đỗ Thành Đồng mở rộng, thể hiện cái nhìn đa chiều, đa sắc trước cuộc sống. Vấn đề dù nhỏ, vụn vặt, thậm chí tầm thường đều đi vào thơ anh, mà ở các tập thơ trước chúng ta ít có cơ hội chứng kiến. Chuyện cái áo anh đang mặc, hòn đá, con giun kim, tiếng hú của xe cấp cứu, tiếng mọt, tiếng chó sủa, chuyện làm đĩ, người đàn bà góa, kẻ bán hàng rong, cho đến bức tranh, hoa ngày tết, bức di chúc của Cha,... là sân chơi của “Đá”. Với những đề tài này, thơ Đỗ Thành Đồng đã bắt nhịp với đời sống thơ đương đại, đồng hành với bề bộn, xô bồ của cuộc sống. Nếu “Rác”, Rỗng”, “Xác” còn “loay hoay” nhiều trong cõi mơ thì đến “Đá”, những gì lãng mạn hầu hết bị tước bỏ, chỉ còn lại hiện thực trụi trần, ngổn ngang như chính gương mặt cuộc sống hiện tại. Cái nhìn đổi thay này của Đỗ Thành Đồng theo tôi hoàn toàn hợp lí, phù hợp với hướng đi của thơ ca hiện nay.

Thơ là nơi chốn trú ngụ của nỗi lòng. Bất kì một thi sĩ nào khi đặt bút làm thơ, không thể không có những vần thơ viết về chính cuộc tình của mình. Hẳn nhiên, tình yêu trong thơ, khi đi qua lăng kính của chủ-thể-thi-sĩ đã được thi vị hóa, hình tượng hóa. Và thơ tình của thi sĩ nào cũng ít nhiều bày tỏ những trạng huống cô đơn. Viết về tình yêu, Đỗ Thành Đồng luôn hiện diện là một kẻ cô đơn. Anh cô đơn từ “Rác”, “Rỗng”, “Xác”. Anh tự xem mình là kẻ “có nỗi buồn trăng mười sáu”. Ý tưởng “ngày cô đơn nở hoa” từ tập thơ trước nay vẫn tiếp tục sinh sôi. Nhưng nỗi buồn “Đá” đa mang hơn: “có những nỗi buồn quá ngon/ có những cô đơn quá đẹp” (Ngẫm). Sự đổ vỡ trong tâm hồn cùng với sự rạn nứt của đời sống làm nên thế giới của “Đá”. Một thế giới tổn thương nhưng rắn rỏi, xù xì nhưng ấn tượng, vụn vặt nhưng lớn lao, khổ đau nhưng phập phồng sự sống: “cuộc đời này như một sợi dây/ để vậy thì tuột/ thắt nút dễ đu// xin về nghe lại lời ru/ gừng cay muối mặn/ vẫn chưa nhạt nhòa” (Ngẫm).

Hiện thực trong thơ Đỗ Thành Đồng khi được soi chiếu qua điểm nhìn của một cái tôi phân rã (tôi tự soi mình trước gương, nhận thấy qua gương một cái tôi khác), tạo dựng thêm một thế giới hiện thực cho “Đá”. Lúc này, cái tôi của thi sĩ vừa hiện hữu trong cái thế giới xô bồ vừa cùng lúc sống với chính tiềm thức, vô thức của mình. Với hình thức tự soi ngắm mình, Đỗ Thành Đồng dựng lên hai mặt của thực tại ngay trong tập thơ “Đá”. Hiện thực gồ ghề mà anh tạo ra, thực ra, chỉ là hiện thực tạm thời, là một nước cờ tạm bợ. Hiện thực anh muốn hướng đến, chính là hiện thực được cất lên từ mạch ngầm vô thức trái tim anh. Thì ra, những mảnh vỡ, đứt rời của thực tại chỉ để dắt díu nhau làm nên ngôi nhà tinh thần của cái tôi chủ thể Đỗ Thành Đồng. Yếu tố vô thức trong “Đá” đa phần ở dạng đối thoại với bản ngã: “anh là ai anh sống để làm gì/ sao không là tiếng côn trùng bản năng/ sao không là bước chân mộng du/ sao không là vọng phu hóa đá” (Ai); hoặc “đã có lúc tôi muốn đổ đi/ những mùi hương cong cớn/ và nhiều khi tôi muốn đập vỡ/ những tiếng chim rúc rích trong người” (Buồn). Đọc những câu thơ trên, chúng ta thấy “Đá” có tính chất song trùng trong đối thoại: đối thoại với cái tôi và đối thoại với cuộc sống. Với hình thức đối thoại nước đôi này, Đỗ Thành Đồng dễ dàng chất vấn cuộc sống hơn. “Kẹt” là một ví dụ: “và từ đó tôi hay nằm mơ/ những cái bóng trùm lên đôi mắt giữ chặt tay chân/ tôi cảm thấy bị tước đi cái quyền vùng vẫy/ nhưng không biết đó là ai”.

Hiện thực tác động đến thi sĩ, thi sĩ khám phá hiện thực qua điểm nhìn (ý thức và vô thức) của mình. Do đó, hiện thực trụi trần, bất trắc cũng chính là hiện thực cõi lòng của thi nhân. Đỗ Thành Đồng mắc kẹt trong chính con người của mình nghĩa là anh cũng đang mắc kẹt (không có tự do) giữa cuộc sống này. Góc cạnh của hiện thực được phơi bày qua tiềm thức, vô thức của anh không chỉ giúp anh xoáy sâu vào mặt trái của hiện thực mà còn đưa người đọc đến với thế giới hiện thực của tâm linh. Dùng vô thức soi sáng ý thức (thế giới hiện thực), đây là hướng đi riêng của Đỗ Thành Đồng, so với các nhà thơ cùng thế hệ anh ở Quảng Bình. Sự tưởng tượng khéo léo tạo nên nhiều ý thơ hay cho tập thơ “Đá”:

nước mắt chảy dài từ mặt trời

cỏ rạp mình dưới đá lời ru ngọn lửa lá đa

bão giông gồng mình thin thít

                                         (Tang)

Lối viết của Đỗ Thành Đồng trong “Đá”, như thế, tự do, mạnh bạo, dấn thân hơn. Đỗ Thành Đồng khám phá chính mình thông qua cấu trúc tự xưng “anh là”, hoặc cấu trúc câu “anh” làm chủ ngữ, như một sự khẳng định cái tôi bản ngã của mình, đồng thời, như là một lời sẻ chia, tâm tình với bạn đọc. Tâm thế của anh không bị ràng buộc bởi hiện thực bòng bong ấy. Đây là điểm nhấn của “Đá”. Anh là anh. Anh đau với chính anh. Anh quăng quật anh với cuộc sống. Anh không cố trút bỏ nỗi buồn đau, nỗi cô đơn ra khỏi con người mình. Bởi lẽ, chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép (Chế Lan Viên). Dẫu xót buốt, Đỗ Thành Đồng vẫn kiên định đau với đời, với thơ:

anh vẫn vắt vê con chữ

trong veo giọt đau

                                    (Vắt)

Một tập thơ, không tránh khỏi những thiếu sót. Nhưng những gì mà Đỗ Thành Đồng nỗ lực đã mang đến làn gió mới cho thơ mình, chí ít, tránh lặp lại chính mình. Với “Đá”, anh vừa mạnh mẽ, cứng cõi như đá, vừa giữ cô đơn để nở hoa những câu thơ.

H.T.A
(TCSH368/10-2019)

------------------------
(1) “Đá”, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, 2019.
(2) Những tập thơ của Đỗ Thành Đồng.

ĐỖ THÀNH ĐỒNG

Ai

Đêm dài ánh mắt
liếc vào thăm thẳm cô đơn
từng câu thơ rón rén nhân tình
tiếng côn trùng quết tiếng thở


anh là ai anh sống để làm gì
sao không là tiếng côn trùng bản năng

sao không là bước chân mộng du
sao không là vọng phu hóa đá


kiếp làm người không cứu nổi trái tim
nụ hôn cũng lang thang cơ nhỡ
một ngàn năm một triệu năm nức nở
những câu thơ vẹt mòn


anh là tôi
ta sống để làm gì
là cái bóng của tham si cuồng hận


đời cứ dài vô tận
đêm liếc mắt âm thầm.



Buồn

Những đám mây ác tính cõng nhau
bờ gai xương rồng khép nép
con cóc nghiến câu thơ sưng tấy
cây si già lơ ngơ


tôi hứng nỗi buồn đổ mái hiên
không một giọt máu đào cảm xúc
những thói quen thành rác
chất đống và bốc mùi


tôi vẫn quen làm việc hàng ngày
của một kẻ tung hoa và
như buổi chiều hôm nay quét dọn
nỗi buồn phân hủy chân trời
đã có lúc tôi muốn đổ đi
những mùi hương cong cớn
và nhiều khi tôi muốn đập vỡ
những tiếng chim rúc rích trong người


cứ tưởng là tôi không dám
nếu như không có một ban mai
tôi nhận ra mình trống rỗng

nỗi buồn hạ thổ.


Cha

Tiếng biển đêm vỗ vào hương khói
trong con
hạt muối mồ hôi Cha ngọt chát
tấm lưng còng
nấm mộ


chia tháng ngày từng hạt gạo
bùn non tóc gầy
lũ đói ngập giấc ngủ
bước chân dựng đứng


giữa những ngày mặt trời mọc ngược
Cha thắp đèn nước mắt
ba mươi tết cúng tổ tiên chén nước
để dành cút rượu biếu thầy dạy con


nếp nhăn cuộc đời Cha để lại
trong con chữ về đêm
tiếng gà gáy câu thơ nức nở
Cha cười cho nắng mới lên


luật thừa kế không chia đều trí tuệ
di chúc Cha chỉ mỗi chữ đức
con là đứa tham lam ích kỷ
vơ về mình nghiệp chướng thi ca


thi ca ngày càng rẻ rúng
nghĩa tình ngày càng khan hiếm
cơm gạo ngày càng thừa mứa
nhớ Cha con cúng giỗ đời
thơ.


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.

  • “Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.

  • Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.

  • Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.

  • Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.

  • Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.

  • Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?

  • Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...

  • Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.

  • Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). 

  • (Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).

  • Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.

  • Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.

  • (Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)

  • YẾN THANH

    Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.

  • VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)

  • Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.

  • HỒ THẾ HÀ

    Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.

  • PHONG LÊ

    Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.