Nhà thơ Trần Vàng Sao - Ảnh: N.Nguyên
Những ngày tôi còn nhỏ ở Vỹ Dạ (Trích) 1. Cổ tay chị Miên rất đen chị đeo chuỗi cườm tấm không đủ hột ba chết đi để hai đứa mồ côi chị ở Đông Xuyên em ở Vỹ Dạ ngày kỵ cha thấy mặt nhau chị em mỗi đứa đứng mỗi góc chị dựa cột nhà hai con mắt đỏ hoe em mặc áo đen dài như người lớn muốn chặt đầu tây một thằng 2. Tháng mười tháng mười một sông không có nước lên chưa hết mùa mưa to nước đục mắt cá những bọt nước đen mắc đầu ngọn cỏ khúc củi rều trôi ngang tôi ngồi bên này nắng nửa dòng sông bên kia thả ngọn lá tre trôi ra biển cho nổi trên nước mặn trời xa không biết mấy trời gần ở dưới đọt cây không nghe ai hát một câu cho buồn 3. Tuổi thơ đến với đời giữa đồng bắt gió nhốt trong áo tôi không biết ở sau lưng có con mắt đang nhìn soi gương thấy tôi nhăn mặt làm quỷ dọa tôi nuốt hột thầu đâu vô bụng sợ mọc cây chết dại cá không ăn muối cá ươn 4. Ngày nắng ngày mưa không nhớ được cơn dông buổi chiều mưa tới buổi tối đưa tay vuốt nước trên mặt không kịp con mắt đỏ cay ngó không thấy rõ mặt người cứ thẳng đầu vuốt mặt mà đi ngược gió nên mát trong tóc con chim trên cây kêu tiếng rảnh rang lượm hòn đá ném xuống vũng nước bên đường không có điều chi buồn
5. Nhà tôi ở Vỹ Dạ hàng xóm bà con thấy mặt nhau hàng ngày đứng bên này hàng hóp ngã nón sang bên kia hàng hóp mượn gạo (loong tộn loong bằng) tôi có biết buồn chi không đầu hôm súng nổ ở cầu Ông Thượng chúng tôi cứ chia phe đánh giặc xóm trên xóm dưới không có đứa nào chết như ba tôi bị tây bắn ở An Hòa về nhà tôi giấu súng bắn hột bì lời dưới chiếu ngủ không rửa chân không có đứa nào thiệt thù để giết 6. Nửa đêm thức dậy thắp đèn đi quanh vườn không biết ban ngày có để quên chi hộp diêm không và con rạm gãy càng đã chết sợi chỉ buộc ngang … 10. Ngồi lâu một mình không có chi chơi tôi bỏ hết những cục đá vào bọc đi ra đồng vác mặt lên trời giữa trưa thằng con ai thiệt dại đi dang nắng tôi nghe nói to ở sau lưng mai đau mạ nấu cháo hành tôi ném mấy cục đá vào bụi cây con chi đập cánh bay ra … 13. Chó sủa đầu hôm xóm trên sáng mai có người nằm chết giữa đường lính đồn cầu Ông Thượng không đi tuần sớm nữa đợi đến trưa vác gậy đâm bụi tre ngó chi mấy việc của người lớn tôi cười ngó gãy cả mụt măng … 17. Tôi ngó hết chung quanh mình qua con đường dốc xuống một cái cầu đám rước đi qua Phu Văn Lâu không thổi kèn đánh trống áo xanh áo đỏ áo thụng áo to mặt người mặt giả mặt thật mặt nạ đất mặt nạ giấy đi như tù đi trên đất đi như tù không nói không khóc đi như tù hai tay không xích tôi buồn vì con bửa củi không chịu ăn gỗ mục đã chết trong hộp diêm sáng mai đưa đi chôn ngoài cây khế một cái đầu con gái ngó qua hàng rào phì nước miếng làm ông kẹ nơi miệng (ai cũng chết như hôm qua có người chết không ai chôn ở ngoài đồng - lính trong lô cốt trên đình bắn ra) cái đầu con gái mất sau cửa sổ còn lại một cái cổ trắng đeo chuỗi cườm tôi chạy vào nhà thả con chim có hột cườm nơi cổ bay đi 18. Tôi không nhớ hết những ngày đã qua mưa tháng năm tháng bảy ngoài sân bong bóng nổi bong bóng chìm mẹ tôi không đi lấy chồng cơm cục chấm cơm rỡi ngọn lá tre xanh trôi ngược dòng nước giọt mưa không chìm. … (12/4-85) |
BẠCH DIỆP
LÊ HUỲNH LÂM
NGÔ MINH
NGUYỄN KHẮC THẠCH
PHẠM BÁ NHƠN
Nếu như “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh xoáy sâu và bi kịch tình yêu và bi kịch con người thời hậu chiến với những ám ảnh chiến tranh thì Trần Vàng Sao đã tái hiện sắc nét một tiếng khóc lớn của những người đã hy sinh trong chiến tranh nhưng vẫn mang trọn nỗi bi kịch - bi kịch của liệt sĩ thời hậu chiến.
LÊ VĨNH THÁI
NGUYỄN TRỌNG TẠO
LÊ VĨNH THÁI
NGÔ CÔNG TẤN
ĐỨC SƠN
HẢI BẰNG
NGUYÊN QUÂN
NGÔ MINH
(Trích)
55 năm qua, từ những giảng đường Đại học Huế, biết bao thế hệ cầm bút đã đem tâm tình của mình viết thành lịch sử. Trong khuôn khổ kỷ niệm 55 năm thành lập Đại học Huế, TCSH xin giới thiệu chùm thơ của một số tác giả quen thuộc. Sự chọn lựa này không mang tính đại diện cho những thế hệ ở Đại học Huế, nhưng đây là những tên tuổi đã ít nhiều góp phần quan trọng cho sự phong phú đa dạng của một xứ sở được tôn vinh là của thi ca.
"đòi hỏi một chủ nghĩa anh hùng lâu dài nhất, kiên trì nhất, khó khăn nhất của công tác quần chúng và hằng ngày"
LÊNIN
BẠCH DIỆP
LTS: Nhà thơ Ngô Kha sinh năm 1935 tại Huế, dạy văn ở trường Quốc Học Huế khoảng từ 1960-1973. Bạn đọc ở các đô thị miền Nam trước đây đã từng biết Ngô Kha qua hai tập thơ buồn của anh: Hoa cô độc (1962) và Ngụ ngôn của người đãng trí (1969).
QUỐC MINH