Những lần gặp Hồ Chủ tịch và mối quan hệ Việt Pháp

15:36 29/08/2019

HÂN QUY

(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)

Léo Figuères gặp Hồ Chủ tịch vào tháng 5-1950 ở Việt Nam - Ảnh: fr.wikipedia.org

HÂN QUY (H.Q.): Xin ông Léo Figuères nói cho độc giả Việt Nam những gì ông biết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

LÉO FIGUÈRES (L.F.): Tôi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tất cả là bốn lần. Lần thứ nhất, vào mùa xuân 1946, lúc Chủ tịch đến Paris dự hội nghị Fontainebleau. Dịp này, Người gặp nhiều hiệp hội khác nhau đặc biệt là đoàn thể thanh niên Pháp để nói chuyện cho họ biết về tình hình Việt Nam. Tất cả những việc này là để gây dư luận và gây khí thế chuẩn bị thương thảo với Pháp trên cơ sở muốn Pháp nhìn nhận quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam và đi đến một hiệp ước có sự hỗ trợ và tương quan giữa thanh niên hai nước VN và Pháp.

Hồ Chủ tịch tiếp tôi tại tư dinh do chính phủ Pháp thu xếp cho Người tại Pháp. Người mặc một bộ y phục rất giản dị, màu kaki, cài kín cổ và hút thuốc liên hồi.

Rất tiếc hiệp ước ấy không thành hình và tiếp theo đó cuộc đọ sức tiếp diễn gây ra nhiều đổ vỡ.

Lần thứ hai và lần thứ ba tôi gặp Chủ tịch là vào năm 1950. Tôi sang VN dự Đại hội Thanh niên vào tháng hai cho đến tháng năm 1950 và đại diện cho lực lượng thanh niên Pháp. Chuyến đi này, tôi khỏi đi vòng qua Miến Điện và Lào, mà lại đi thẳng Mạc Tư Khoa - Bắc Kinh - Việt Bắc, đi thẳng qua biên giới Việt Trung vì đường này đã thông thương sau sự thất bại của quân Tưởng Giới Thạch. Tháng 2.1950 tôi đến Việt Nam, và tôi tìm gặp ngay Chủ tịch. Cuộc gặp gỡ có khó khăn, vì Chủ tịch ở trong rừng, cạnh suối, xung quanh là nhà bằng tre và là nhà sàn ngăn ngừa thú dữ. Có lính gác, nhiều gia đình khác, và trẻ con. Chủ tịch tiếp tôi niềm nở, hỏi han về tình hình nước Pháp, ý kiến dân chúng Pháp về cuộc chiến. Chủ tịch mời tôi ngủ lại trong buồng, nằm trên chiếu, sau đó mời tôi ăn cơm và uống hai chai sâm banh ngâm nước suối cho mát, rượu này tịch thu được trong một cái đồn Pháp và do cận vệ của Chủ tịch cất giữ lại.

Trước khi quay về Pháp, tôi gặp lại Chủ tịch tại cùng một địa điểm. Chủ tịch có hỏi tôi: thời điểm này, hai phía có thể đi đến thương lượng chăng? Vì phía Pháp cũng như phía Việt Nam đều có binh lính bị giam cầm. Và có thể tiến tới nhiều việc khác nữa, theo Hồ Chủ tịch, sẽ bất lợi cho người Pháp. Người Pháp chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Chủ tịch là người đầy tình cảm nhân ái.

Về lại Pháp, tôi có mở một cuộc họp báo để tường trình tình hình Việt Nam. Tôi xin yết kiến Thủ tướng Pléven nhưng may mắn là bị từ chối. Tôi có gặp đại diện của ông Pignon Cao ủy tại Sài Gòn và được ông này hứa sẽ xúc tiến việc trao đổi tù binh. Sau đó, có một số tiếp xúc, nhưng các tướng Pháp bấy giờ chẳng có thẩm quyền về chính trị cho nên không kết thúc được vấn đề. Chủ Tịch Hồ Chí Minh không hài lòng về việc này, vì Người nghĩ rằng lẽ ra đề nghị của người có thể đưa tới chấm dứt chiến tranh.

Bản thân tôi cũng bị theo dõi và bị xử tội vắng mặt. Đây là một điều vô lý, vì tôi là nhà báo và sang VN là để xem xét tình hình và giúp phần nào cho việc đối thoại mà cuối cùng phải sống lén lút nhiều năm.

Lần thứ 4, tôi gặp Chủ tịch tại Hà Nội, tháng tư 1964, tôi là thành phần của phái đoàn đại biểu cộng sản Pháp. Gặp lại Chủ tịch, tôi thấy Người sức khỏe tốt. Gặp lại Người tại dinh Chủ tịch. Người mang dép cao su, đôi mắt sáng quắc. Người có cá tính đặc biệt, hiện ra bên ngoài không những bằng cách nói, cách ăn mặc, mà bằng dáng dấp khác những người khác. Chủ tịch không phải là một quyền lực, không phải là một thư lại cao cấp, không phải là một công chức, không phải một người ra lệnh mà đó là một người đầy tình người: nụ cười với điếu thuốc lá; xen vào những lời lẽ nghiêm nghị là vài câu bông đùa. Chủ tịch là một người tràn đầy trí tuệ và văn hóa. Người hiểu biết các nước Trung Hoa, Nga, Pháp và nhiều nước khác, nhưng giữ được cho mình nhiều cốt cách Việt Nam. Lấy chính nghĩa dân tộc làm chính nghĩa của mình, không tự đặt mình lên trên dân tộc mà đứng chung với dân tộc.

Nguyên tác tiếng Pháp cuốn 'Je reviens du Vietnam libre' (Tôi trở về từ Việt Nam tự do) in năm 1950 (trái) và cuốn tái bản 3-2015 - Ảnh: tổng hợp từ Internet và 'Nhân dân'


H.Q.: Trong cuốn sách của ông nhan đề là "Tôi trở về từ Việt Nam tự do", ông nhấn mạnh đến khía cạnh nhân bản của Hồ Chủ tịch. Và ngay trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, Chủ tịch còn phân biệt những kẻ thực dân với dân tộc Pháp...

L.F.: Dĩ nhiên là như vậy. Không những Hồ Chủ tịch biết phân biệt mà còn giúp người khác biết phân biệt. Ngay trong quân đội Việt Nam cũng có những người Pháp giúp Việt nam. Phân biệt người nào nuôi dưỡng chiến tranh, và những người nào tranh đấu chấm dứt chiến tranh.

H.Q.: Năm 1950, có nhiều người VN có cảm tình với dân tộc Pháp, trong đó lực lượng phụ nữ cũng vậy...

L.F.: Đúng như vậy. Năm ấy, đến VN lắm người chẳng biết tôi là ai nhưng họ tỏ ra có tình thân ái. Tôi đến dự Đại hội Phụ nữ, gặp nhiều tổ chức khác nhau, nhiều nhà trí thức, Mặt trận... Ai nấy đều mong lập lại giao hảo giữa hai nước. Giữa lúc đó thì thành phần thực dân Pháp đang gây đổ nát, áp dụng khổ hình trên đất nước VN.

H.Q.: Ông là nhà báo. Trong tác phẩm của ông, ông có nói Chủ tịch Hồ Chí Minh có gặp ông và yêu cầu ông viết bài về đời sống công nhân Pháp. Chủ tịch là người sáng lập ra tờ báo "Người cùng khổ''.

L.F.: Phải. Chúng tôi nhận được thông tin đầy đủ về ông Hồ Chí Minh trước khi gặp Người. Tại hội nghị Tours, cách đây 70 năm, Chủ tịch đã đứng lên bênh vực cho những thuộc địa Đông Dương. Chủ tịch đã liên lạc với Đảng xã hội Pháp. Kể từ 1920, Đảng xã hội Pháp lên tiếng chống đối áp bức thực dân. Chúng tôi cũng có người bị bắt khi vận động các phong trào ủng hộ lập trường ấy.

H.Q.: Chủ tịch Hồ Chí Minh có truyền lại thông điệp là thắt chặt hữu nghị giữa Việt Nam và Pháp. Đó là điều chúng tôi đang thực hiện. Chúng tôi đang tiến hành việc đỡ đầu của một số người Pháp đối với sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế. Đây chính là một điều rất tốt.

L.F.: Di sản của Chủ tịch tiếp tục gây ảnh hưởng tốt. Chính ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch muốn chọn con đường giao hảo. Cuộc chiến tranh Hoa Kỳ là một chiến tranh có thể tránh được nếu người Pháp không để người Mỹ hành động phóng túng không tôn trọng hiệp định Genève với tuyển cử tự do. Thủ tướng Mendès-France không muốn vậy nên đưa đến cuộc chiến tranh ấy. Ai là kẻ chịu trách nhiệm? Trách nhiệm là những ai không chịu ký kết hòa bình năm 1946, là những ai khiêu chiến ở Hà Nội, Hải Phòng sau đó, là những ai không muốn thương thuyết năm 1950 rồi sau đó không tôn trọng hiệp định Genève, (Ai đó) là những người Hoa Kỳ... Bây giờ VN thống nhất. Còn nhiều đổ nát, cần nhiều năm xây dựng lại. Nên có hợp tác để giúp vực dậy nền kinh tế VN, vì VN là một dân tộc can đảm đã chịu nhiều khổ đau.

H.Q.: Những năm sau này có nhiều hoạt động thân thiện, đoàn kết giữa Pháp và VN. Có nhiều tổ chức ngoài chính quyền. Như Hội Người Yêu Huế đang vận động tổ chức "con tàu đoàn kết" nhằm giúp đỡ cho trẻ em Việt Nam...

L.F.: Những việc làm ấy rất cần. Nhưng không đủ. Chính phủ Pháp cần hiểu và giúp VN trong những điều kiện tốt hơn.

H.Q.: Tôi luôn có một niềm quý trọng ông. Tôi còn giữ kỷ niệm thuở còn là học sinh và lén đọc cuốn "Tôi trở về từ Việt Nam tự do" trong thời Pháp...

L.F.: Cuốn sách ấy là tập hợp nhiều bài báo của tôi. Bán ra trên 50.000 bản. Cuốn ấy phần nào giúp người Pháp hiểu VN, cho người Pháp hiểu là không thể chiến thắng được đâu, và được báo chí tiến bộ hỗ trợ và ngăn trở việc vận chuyển khí giới.

Tôi xin đề tặng anh cuốn sách, chắc là anh không có.

(L.F đề tặng tác phẩm của mình cho H.Q)

H.Q.: Chúng tôi dự định sẽ lên tiếng một lần nữa kêu gọi góp phần trùng tu di tích Huế: năm nay hoặc sang năm. Dịp này, tôi mong ông cho chúng tôi mượn phòng diễn kịch để hô hào.

L.F.: Vâng, được lắm. Nhưng ông nên thông báo trước cho chúng tôi sắp xếp.

H.Q.: Xin cám ơn ông trước.

H.Q thực hiện tại Paris
(S.H chuyển băng ghi âm tiếng Pháp sang tiếng Việt).
(TCSH47/05-1991)
 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Isaac Bashevis Singer (14/7/1904 - 24/7/1991) nhà văn Mỹ gốc Do Thái Ba Lan đoạt giải Nobel Văn học năm 1978. Những sáng tác của ông chủ yếu viết bằng tiếng Yiddish (tiếng Đức cổ của người Do Thái).

  • Tổng thống thứ 44 của Mỹ có phong cách lãnh đạo đặc trưng, thu hút được hàng triệu người ủng hộ và khiến cả những đối thủ của ông cũng phải thán phục.

  • NGUYỄN QUỐC THẮNG 

    “Tất cả những gì tôi đã làm được đều là kết quả của sự cô đơn”1
                       (Kafka)
    “Hệ thống ám dụ của Kafka thực hiện chức năng của nó như những ký hiệu vô hạn chất vấn những ký hiệu khác”2
                       (Roland Barthes)

  • Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Sau ông làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Ông bị một phần tử quá khích người Nga ám sát năm 1932. Cuốn hồi ký Xứ Đông Dương là cuốn sách viết riêng về giai đoạn ông ở Đông Dương.

  • A. GELMAN(*)

    Chúng ta là những người chứng kiến tình trạng lo ngại đang tăng lên của xã hội về khía cạnh đạo đức trong sinh hoạt của đảng ta.

  • LGT: Tiểu luận “Làm sao văn học khả hữu?” dưới đây là văn bản phê bình văn học đầu tiên của Maurice Blanchot được ra mắt vào năm 1941 trên Nhật báo tranh luận (Journal des débats).

  • Kể đến Noel năm nay, thế là tôi đã qua trọn 50 mùa Noel ở nước Đức, đất nước có truyền thống Noel lâu đời, nơi thành phố Munich, vốn có tên từ những nhà tu đạo Thiên Chúa “Mönche”, nơi có chợ Giáng sinh gọi là “Christkindelmarkt” truyền thống xa xưa (khoảng 400 năm trước), và cũng từ vùng này, bài thánh ca bất tuyệt “Stille Nacht” cất lên, vang vọng khắp trên địa cầu đã tròn 200 năm.

  • LÊ VIỄN PHƯƠNG

    (Đọc Cuộc đời yêu dấu của Alice Munro, Nguyễn Đức Tùng chuyển ngữ, NXB Trẻ, 2015).

  • TRẦN HUYỀN SÂM

    Vì sao phương Đông đã trở thành chủ đề trung tâm trong tiểu thuyết Pháp đương đại? Đó là nội dung bàn luận trong mùa trao giải văn học năm nay ở Paris.

  • L.T.S: "Cuộc đời của André Colin" là thể loại sân khấu "lưu động" một sự kết hợp của đối thoại, âm nhạc, đồ họa, trên sân khấu diễn ra đồng thời hình vẽ, tranh liên hoàn, tranh đèn chiếu và phim ảnh 16mm. Từ khi biên soạn (1987) kịch bản đã được diễn một trăm lần ở Paris và các tỉnh khác. Tác giả Anne Quesemand, thạc sĩ văn học cổ điển, là người biên kịch đồng thời là diễn viên cùng với Laurent Berman. Bà còn là tác giả của nhiều phim ngắn.

  • Châu Âu hẳn nhiên sẽ trở nên dễ bị tổn thương hơn trước các đe dọa và đòn tấn công của bọn khủng bố. Một số chính sách về nhập cư có thể sẽ thay đổi để thích nghi với tình hình mới.

  • VIỄN PHƯƠNG

    Lúc 13 giờ Thụy Điển (tức 18 giờ Việt Nam), ngày 8/10 tại Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, tên của nhà văn Svetlana Alexievich đã được xướng lên dành cho giải Nobel văn chương.

  • Antoine Leiris đã mất đi người vợ Helene dấu yêu của mình trong vụ xả súng ở nhà hát Bataclan, Paris ngày 13/11. Con trai của họ, bé Melvil 17 tháng tuổi giờ đây đã mất đi người mẹ của mình.

  • MAURICE BLANCHOT

    Cuốn sách mà Jean Paulhan vừa dành cho văn chương và ngôn ngữ được đọc với một tâm thế khác thường.

  • Ngày 1-11-1988, họa sĩ Bửu Chỉ đến Paris. Ngày 30-4-1989, họa sĩ trở về nước. Trong thời gian ở Paris, Bửu Chỉ đã sáng tác nhiều tác phẩm mới và đã có hai cuộc triển lãm tranh thành công tốt đẹp: tại Nhà Việt Nam từ 1-2 đến 5-3-1989 với 21 bức tranh và tại UNESCO với 40 bức từ 3-4 đến 14-4-1989.

  • QUẾ HƯƠNG

    Tôi đến Mỹ 4 tháng, thăm con trai từng là nha sĩ, qua học lại, 41 tuổi mới chính thức vào trường đại học Mỹ, sống lần nửa đời sinh viên ở một đất nước có nền giáo dục hàng đầu thế giới.

  • NGUYỄN KHOA QUẢ

    Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại từ năm 1975 đến năm 1979, chưa đầy 4 năm, phía bắc Đặng Tiểu Bình - Trung Quốc đem quân đánh phá. Phía nam Khơ me đỏ Campuchia, bọn Pôn Pốt sang đánh phá các tỉnh Kiên Giang và Tây Ninh... Quân tình nguyện Việt Nam kết hợp với Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia lật đổ chế độ Pôn Pốt năm 1979, giải phóng nhân dân thoát khỏi chế độ bạo tàn diệt chủng.

  • LTS: Cách đây chưa lâu, báo Bulledingue (BD) của phong trào sinh viên trong tổ chức Hội Người Việt Nam tại Pháp, có tổ chức phỏng vấn giáo sư Hoàng Xuân Hãn trên hàng loạt vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nội dung trả lời của giáo sư có thể giúp độc giả Sông Hương một số dẫn liệu mới hoặc gợi mở những cuộc trao đổi tranh luận bổ ích. Vì vậy, với sự đồng ý của giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Sông Hương xin trích giới thiệu nội dung cuộc phỏng vấn này với độc giả.

  • Đoản văn này được George Orwell viết năm 1936 kể về khoảng thời gian ông làm việc như một nhân viên bán sách bán thời gian tại tiệm sách cũ Booklover’s Corner tọa lạc ngay góc phố Pond Street và South End Green, thành phố London, nước Anh. Hiện nay tiệm sách cũ Booklover’s Corner không còn nữa, thay vào đó là một nhà hàng pizza, tuy nhiên ở đó còn gắn một tấm biển ghi rằng “George Orwell, nhà văn (1903 - 1950) từng sống và làm việc trong một tiệm sách ngay vị trí này”.