HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
Léo Figuères gặp Hồ Chủ tịch vào tháng 5-1950 ở Việt Nam - Ảnh: fr.wikipedia.org
HÂN QUY (H.Q.): Xin ông Léo Figuères nói cho độc giả Việt Nam những gì ông biết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
LÉO FIGUÈRES (L.F.): Tôi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tất cả là bốn lần. Lần thứ nhất, vào mùa xuân 1946, lúc Chủ tịch đến Paris dự hội nghị Fontainebleau. Dịp này, Người gặp nhiều hiệp hội khác nhau đặc biệt là đoàn thể thanh niên Pháp để nói chuyện cho họ biết về tình hình Việt Nam. Tất cả những việc này là để gây dư luận và gây khí thế chuẩn bị thương thảo với Pháp trên cơ sở muốn Pháp nhìn nhận quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam và đi đến một hiệp ước có sự hỗ trợ và tương quan giữa thanh niên hai nước VN và Pháp.
Hồ Chủ tịch tiếp tôi tại tư dinh do chính phủ Pháp thu xếp cho Người tại Pháp. Người mặc một bộ y phục rất giản dị, màu kaki, cài kín cổ và hút thuốc liên hồi.
Rất tiếc hiệp ước ấy không thành hình và tiếp theo đó cuộc đọ sức tiếp diễn gây ra nhiều đổ vỡ.
Lần thứ hai và lần thứ ba tôi gặp Chủ tịch là vào năm 1950. Tôi sang VN dự Đại hội Thanh niên vào tháng hai cho đến tháng năm 1950 và đại diện cho lực lượng thanh niên Pháp. Chuyến đi này, tôi khỏi đi vòng qua Miến Điện và Lào, mà lại đi thẳng Mạc Tư Khoa - Bắc Kinh - Việt Bắc, đi thẳng qua biên giới Việt Trung vì đường này đã thông thương sau sự thất bại của quân Tưởng Giới Thạch. Tháng 2.1950 tôi đến Việt Nam, và tôi tìm gặp ngay Chủ tịch. Cuộc gặp gỡ có khó khăn, vì Chủ tịch ở trong rừng, cạnh suối, xung quanh là nhà bằng tre và là nhà sàn ngăn ngừa thú dữ. Có lính gác, nhiều gia đình khác, và trẻ con. Chủ tịch tiếp tôi niềm nở, hỏi han về tình hình nước Pháp, ý kiến dân chúng Pháp về cuộc chiến. Chủ tịch mời tôi ngủ lại trong buồng, nằm trên chiếu, sau đó mời tôi ăn cơm và uống hai chai sâm banh ngâm nước suối cho mát, rượu này tịch thu được trong một cái đồn Pháp và do cận vệ của Chủ tịch cất giữ lại.
Trước khi quay về Pháp, tôi gặp lại Chủ tịch tại cùng một địa điểm. Chủ tịch có hỏi tôi: thời điểm này, hai phía có thể đi đến thương lượng chăng? Vì phía Pháp cũng như phía Việt Nam đều có binh lính bị giam cầm. Và có thể tiến tới nhiều việc khác nữa, theo Hồ Chủ tịch, sẽ bất lợi cho người Pháp. Người Pháp chúng tôi cũng nghĩ như vậy. Chủ tịch là người đầy tình cảm nhân ái.
Về lại Pháp, tôi có mở một cuộc họp báo để tường trình tình hình Việt Nam. Tôi xin yết kiến Thủ tướng Pléven nhưng may mắn là bị từ chối. Tôi có gặp đại diện của ông Pignon Cao ủy tại Sài Gòn và được ông này hứa sẽ xúc tiến việc trao đổi tù binh. Sau đó, có một số tiếp xúc, nhưng các tướng Pháp bấy giờ chẳng có thẩm quyền về chính trị cho nên không kết thúc được vấn đề. Chủ Tịch Hồ Chí Minh không hài lòng về việc này, vì Người nghĩ rằng lẽ ra đề nghị của người có thể đưa tới chấm dứt chiến tranh.
Bản thân tôi cũng bị theo dõi và bị xử tội vắng mặt. Đây là một điều vô lý, vì tôi là nhà báo và sang VN là để xem xét tình hình và giúp phần nào cho việc đối thoại mà cuối cùng phải sống lén lút nhiều năm.
Lần thứ 4, tôi gặp Chủ tịch tại Hà Nội, tháng tư 1964, tôi là thành phần của phái đoàn đại biểu cộng sản Pháp. Gặp lại Chủ tịch, tôi thấy Người sức khỏe tốt. Gặp lại Người tại dinh Chủ tịch. Người mang dép cao su, đôi mắt sáng quắc. Người có cá tính đặc biệt, hiện ra bên ngoài không những bằng cách nói, cách ăn mặc, mà bằng dáng dấp khác những người khác. Chủ tịch không phải là một quyền lực, không phải là một thư lại cao cấp, không phải là một công chức, không phải một người ra lệnh mà đó là một người đầy tình người: nụ cười với điếu thuốc lá; xen vào những lời lẽ nghiêm nghị là vài câu bông đùa. Chủ tịch là một người tràn đầy trí tuệ và văn hóa. Người hiểu biết các nước Trung Hoa, Nga, Pháp và nhiều nước khác, nhưng giữ được cho mình nhiều cốt cách Việt Nam. Lấy chính nghĩa dân tộc làm chính nghĩa của mình, không tự đặt mình lên trên dân tộc mà đứng chung với dân tộc.
![]() |
Nguyên tác tiếng Pháp cuốn 'Je reviens du Vietnam libre' (Tôi trở về từ Việt Nam tự do) in năm 1950 (trái) và cuốn tái bản 3-2015 - Ảnh: tổng hợp từ Internet và 'Nhân dân' |
H.Q.: Trong cuốn sách của ông nhan đề là "Tôi trở về từ Việt Nam tự do", ông nhấn mạnh đến khía cạnh nhân bản của Hồ Chủ tịch. Và ngay trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, Chủ tịch còn phân biệt những kẻ thực dân với dân tộc Pháp...
L.F.: Dĩ nhiên là như vậy. Không những Hồ Chủ tịch biết phân biệt mà còn giúp người khác biết phân biệt. Ngay trong quân đội Việt Nam cũng có những người Pháp giúp Việt nam. Phân biệt người nào nuôi dưỡng chiến tranh, và những người nào tranh đấu chấm dứt chiến tranh.
H.Q.: Năm 1950, có nhiều người VN có cảm tình với dân tộc Pháp, trong đó lực lượng phụ nữ cũng vậy...
L.F.: Đúng như vậy. Năm ấy, đến VN lắm người chẳng biết tôi là ai nhưng họ tỏ ra có tình thân ái. Tôi đến dự Đại hội Phụ nữ, gặp nhiều tổ chức khác nhau, nhiều nhà trí thức, Mặt trận... Ai nấy đều mong lập lại giao hảo giữa hai nước. Giữa lúc đó thì thành phần thực dân Pháp đang gây đổ nát, áp dụng khổ hình trên đất nước VN.
H.Q.: Ông là nhà báo. Trong tác phẩm của ông, ông có nói Chủ tịch Hồ Chí Minh có gặp ông và yêu cầu ông viết bài về đời sống công nhân Pháp. Chủ tịch là người sáng lập ra tờ báo "Người cùng khổ''.
L.F.: Phải. Chúng tôi nhận được thông tin đầy đủ về ông Hồ Chí Minh trước khi gặp Người. Tại hội nghị Tours, cách đây 70 năm, Chủ tịch đã đứng lên bênh vực cho những thuộc địa Đông Dương. Chủ tịch đã liên lạc với Đảng xã hội Pháp. Kể từ 1920, Đảng xã hội Pháp lên tiếng chống đối áp bức thực dân. Chúng tôi cũng có người bị bắt khi vận động các phong trào ủng hộ lập trường ấy.
H.Q.: Chủ tịch Hồ Chí Minh có truyền lại thông điệp là thắt chặt hữu nghị giữa Việt Nam và Pháp. Đó là điều chúng tôi đang thực hiện. Chúng tôi đang tiến hành việc đỡ đầu của một số người Pháp đối với sinh viên trường Đại học Sư phạm Huế. Đây chính là một điều rất tốt.
L.F.: Di sản của Chủ tịch tiếp tục gây ảnh hưởng tốt. Chính ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chủ tịch muốn chọn con đường giao hảo. Cuộc chiến tranh Hoa Kỳ là một chiến tranh có thể tránh được nếu người Pháp không để người Mỹ hành động phóng túng không tôn trọng hiệp định Genève với tuyển cử tự do. Thủ tướng Mendès-France không muốn vậy nên đưa đến cuộc chiến tranh ấy. Ai là kẻ chịu trách nhiệm? Trách nhiệm là những ai không chịu ký kết hòa bình năm 1946, là những ai khiêu chiến ở Hà Nội, Hải Phòng sau đó, là những ai không muốn thương thuyết năm 1950 rồi sau đó không tôn trọng hiệp định Genève, (Ai đó) là những người Hoa Kỳ... Bây giờ VN thống nhất. Còn nhiều đổ nát, cần nhiều năm xây dựng lại. Nên có hợp tác để giúp vực dậy nền kinh tế VN, vì VN là một dân tộc can đảm đã chịu nhiều khổ đau.
H.Q.: Những năm sau này có nhiều hoạt động thân thiện, đoàn kết giữa Pháp và VN. Có nhiều tổ chức ngoài chính quyền. Như Hội Người Yêu Huế đang vận động tổ chức "con tàu đoàn kết" nhằm giúp đỡ cho trẻ em Việt Nam...
L.F.: Những việc làm ấy rất cần. Nhưng không đủ. Chính phủ Pháp cần hiểu và giúp VN trong những điều kiện tốt hơn.
H.Q.: Tôi luôn có một niềm quý trọng ông. Tôi còn giữ kỷ niệm thuở còn là học sinh và lén đọc cuốn "Tôi trở về từ Việt Nam tự do" trong thời Pháp...
L.F.: Cuốn sách ấy là tập hợp nhiều bài báo của tôi. Bán ra trên 50.000 bản. Cuốn ấy phần nào giúp người Pháp hiểu VN, cho người Pháp hiểu là không thể chiến thắng được đâu, và được báo chí tiến bộ hỗ trợ và ngăn trở việc vận chuyển khí giới.
Tôi xin đề tặng anh cuốn sách, chắc là anh không có.
(L.F đề tặng tác phẩm của mình cho H.Q)
H.Q.: Chúng tôi dự định sẽ lên tiếng một lần nữa kêu gọi góp phần trùng tu di tích Huế: năm nay hoặc sang năm. Dịp này, tôi mong ông cho chúng tôi mượn phòng diễn kịch để hô hào.
L.F.: Vâng, được lắm. Nhưng ông nên thông báo trước cho chúng tôi sắp xếp.
H.Q.: Xin cám ơn ông trước.
H.Q thực hiện tại Paris
(S.H chuyển băng ghi âm tiếng Pháp sang tiếng Việt).
(TCSH47/05-1991)
Mark Taimanov là trường hợp hiếm hoi trên thế giới khi cùng đạt tới đỉnh cao ở hai lĩnh vực là cờ vua và nhạc cổ điển.
TUỆ ĐAN
“Ngôn ngữ bị bão hòa và trở nên có sức sống thông qua thời gian”
(Jorge Luis Borges)
JEAN-PAUL SARTRE (Nhật Vương dịch)
Jean-Paul Sartre (1905 - 1980), nhà văn Pháp, là một trong số những gương mặt tiêu biểu của chủ nghĩa hiện sinh, thường được vinh danh là một trong số các triết gia hàng đầu của nền triết học Pháp thế kỷ XX.
TUỆ ĐAN
Nguồn mạch của tác phẩm tuôn ra từ sự cô đơn của nó, từ đó nó bắt đầu và tìm kiếm một tác lực cho sự khởi đầu ấy.
(Maurice Blanchot)
YẾN THANH
Thực thể Việt là một cấu trúc văn hóa động, trong đó nhiều yếu tố bản sắc chỉ được hình thành thông qua giao lưu với quốc tế, hấp thụ từ tinh hoa văn hóa nhân loại để biến “cái bên ngoài” trở thành “cái bên trong”.
LE VIEUX SIMON
Hồi ký
Trong thời gian bị lưu đày ở đảo Réunion (1916 - 1945) hoàng tử Vĩnh San (tức cựu hoàng Duy Tân) đã có nhiều hoạt động văn hóa và chính trị.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Chiều ngày 13/10/2016, Hội đồng Khoa học Hoàng gia Thụy Điển đã chính thức công bố giải Nobel Văn chương thuộc về nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ người Mỹ Bob Dylan với thông cáo giải thưởng được trao vì những phát kiến của ông trong việc tìm kiếm những cách diễn đạt thi pháp mới lạ cho truyền thống âm nhạc Mỹ.
Hòn đảo Cuba bé nhỏ và nghèo nàn hiện là một trong những nơi sản xuất ra các vũ công trẻ xuất sắc nhất thế giới. Nhà hát Ballet Hoàng Gia và Ballet Quốc gia Anh, San Francisco Ballet và New York City ballet đều có những diễn viên múa chính người Cuba. Làm thế nào một quốc gia nghèo nàn bị cô lập với 11 triệu dân có thể làm được điều đó?
Chúng ta đều biết rằng các nhân vật nổi tiếng thế giới như Albert Einstein, Benjamin Franklin, Natalie Portman, Ellen DeGeneres, Gandhi, Paul McCartney, Charles Darwin và Betty White cùng chia sẻ một điểm chung với nhau - đó chính là họ đều là những người có chế độ ăn dựa trên thực vật. Và có bao giờ bạn có hỏi lý do vì sao không?
Sau nhiều thế kỷ, các bức tường từng bảo vệ các Hoàng đế Trung Quốc trong Tử Cấm Thành đã bắt đầu suy yếu, gạch bị long ra và bề mặt đã có nhiều vết nứt.
TAMARA MOTYLEVA
Nhờ Tạp chí Văn học Obozreniye đăng tải "Những tư tưởng không hợp thời" của Maxim Gorky, chúng ta đã có thể hiểu nội dung sự khác biệt giữa ông với Lênin và những người Bônsêvích trước và sau cách mạng tháng 10.
Cách đây 75 năm, ngày 7/11/1941, nhân kỷ niệm 24 năm Cách mạng Tháng Mười, nước Nga đã tổ chức một buổi diễu binh, bất chấp những khó khăn, phức tạp của thời chiến khi quân phátxít Ðức đang ở cửa ngõ Moskva.
TUỆ ĐAN
Thân xác hiện hữu để rồi đem lại sức nặng và hình dạng cho sự tồn tại của chúng ta.
O. P.
Judith Lorber, sinh năm 1931, là giáo sư hưu giảng các môn Xã hội học và Phụ nữ học tại Trung tâm Tốt nghiệp thuộc Đại học Thành phố New York và Học viện Brooklyn. Bà là nhà lí thuyết nền tảng của kiến thiết xã hội về giới tính và đóng một vai trò then chốt trong việc tạo dựng và chuyển hóa ngành giới tính học.
PHẠM HỮU THU
Trong gần một tháng được ở “xứ sở chuột túi”, tôi có dịp đi đó đi đây và tiếp xúc với nhiều người, chủ yếu là kiều bào ta ở vùng Cabramatta - nơi được mệnh danh là thủ phủ của người Việt ở Australia.
NGUYỄN THỊ TUYẾT
Từ những chuyến tàu cưỡng bức xuyên Đại Tây Dương, người da đen đặt chân lên đất Mỹ với một nhân vị mới: người nô lệ. Toni Morrison ý thức sâu sắc về những cướp đoạt ấy, toàn bộ tác phẩm của bà không chỉ là lịch sử của người da đen (hơn ba thế kỷ) với tất cả những vấn đề khởi đi từ hệ lụy của màu da, mà quan trọng hơn, là nỗ lực mở ra một phả hệ mới, phả hệ của lòng nhân; và trên nền tảng bảo bối là bản sắc văn hóa, lịch sử tổ tiên, mỗi cá nhân phải giải thoát nhân vị nô lệ trong chính bản thân mình.
Ngày 17 tháng Chín vừa qua, tại Trung Tâm Nghệ thuật và Nghiên cứu Bétonsalon, thuộc trường đại học Paris VII-Didérot, thuộc quận XIII, Paris đã tổ chức triển lãm và hội thảo bàn tròn về các nghệ sỹ đương đại viễn xứ với chủ đề “Anywhere But Here”, trong đó có vua Hàm Nghi của Việt Nam.
Nữ văn sĩ nổi tiếng Chilê, Isabel Allende (Isabên Agiênđê) trả lời phóng viên tạp chí Cuba International (1987) trong chuyến đi thăm Cuba của bà.
BỬU Ý
Nhìn học sinh ở Pháp, ta có cảm tưởng họ chơi và nghỉ nhiều hơn học.
Điều gì đã khiến cho vở kịch có sức sống trường tồn như vậy?