ĐỖ LAI THÚY
Cũng như sáng tác văn học, phê bình, như là sự tự ý thức của văn học, cũng có những giới hạn, tức một ranh giới có phần tự nhiên và cũng có phần nhân tạo, nên tuy không phá đổ được, nhưng cũng có thể lấn rộng, thậm chí vượt qua.
Ảnh: internet
Nếu làm một nhát cắt đồng đại, thì có thể thấy phê bình văn học hiện nay tồn tại cùng lúc cả ba hệ hình tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại. Sự đồng tồn này chẳng những làm rối loạn các giá trị, mà còn cản trở phát triển của văn học qua sự thay đổi hệ hình. Trước hết có thể lấy ví dụ từ khái niệm nội dung/ hình thức, một khái niệm của phê bình tiền hiện đại. Thực ra, nội dung/ hình thức vốn không phải là một khái niệm của văn học, mà mượn từ triết học, nên cũng mượn luôn cả các nguyên tắc của nó là nội dung quy định hình thức, nội dung thay đổi sẽ kéo theo sự đổi thay của hình thức. Từ đó phê bình văn học chỉ chú ý đến nội dung, mà chủ yếu là cái nội dung xã hội được phản ánh vào tác phẩm, thậm chí cái xã hội bên ngoài mà tác phẩm phản ánh. Còn hình thức tác phẩm thì chỉ nói đến một cách chiếu lệ, một thứ thừa mà không thể thiếu. Điều này đã là một trong nhiều nguyên nhân dẫn văn học tiền - Đổi mới đến hiện trạng “sáng tác thì suy nghệ thuật, phê bình thì suy học thuật”. Phê bình hiện đại coi tác phẩm văn học là nghệ thuật ngôn từ nên đã xóa bỏ sự đối lập nhị nguyên giữa nội dung và hình thức, để tiến tới coi nội dung chính là hình thức, hình thức chính là nội dung. Hoặc chí ít thì: nội dung của hình thức = hình thức của nội dung = nghệ thuật. Vậy mà phê bình văn học hiện nay, nhất là trong nhà trường, vẫn kiên trì lưỡng phân nội dung/ hình thức, trong khi chỉ nên đi sâu vào phân tích những vấn đề của tác phẩm, mà vấn đề nào chả là sự cuội kết của những cái vốn được coi là nội dung/ hình thức của một văn bản.
Phê bình hiện đại dựa trên lối tiếp cận từ văn bản, đã chiến thắng giòn giã phê bình tiền hiện đại dựa trên lối tiếp cận từ tác giả. Những phương pháp phân tích văn bản dựa trên ngữ học cấu trúc, phong cách học, thi pháp học, tự sự học, ký hiệu học, cấu trúc luận… mang lại nhiều thành công cho những phê bình một số tác phẩm, tác giả cụ thể của văn học Việt Nam. Đa số nhà phê bình lại đồng thời là những nhà giáo, nên họ đã đưa được lối tiếp cận trên vào các trường đại học. Bởi vậy, nhanh chóng được phổ cập, thậm chí trở thành quy chuẩn, một thứ quy chuẩn ít nhiều có tính thời thượng. Sự thành công của thế hệ phê bình văn bản đầu tiên, càng khiến các thế hệ đi sau phải đào sâu vào văn bản bằng những lý thuyết khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là thi pháp học và tự sự học. Cứ như vậy, vô hình trung họ bị cấu trúc văn bản cầm tù. Ngoài những vấn đề của/ cho văn bản ra, họ không còn biết đến những gì khác ngoài văn bản nữa. Đọc phê bình hôm nay người ta thấy dày đặc những thuật ngữ khó hiểu, không chỉ với bạn đọc thông thường, mà nhiều khi với cả bạn đọc chuyên môn. Phê bình văn học, vì thế, trở thành cuộc trò chuyện của/ giữa những người cùng nghề với nhau. Tính chất “ê - lít” khép kín, đặc tuyển này làm cho nó càng ngày càng trở nên xa lạ với những vấn đề cấp thiết của đương thời. Phê bình văn học, như vậy, không chỉ cách xa với cuộc sống, tách rời với nhiều ngành khoa học xã hội nhân văn, mà còn cách sau nghiên cứu phê bình văn học thế giới. Thống kê tài liệu tham khảo của một số công trình có uy tín của các học giả nước ngoài viết về Việt Nam và khu vực, thì có thể thấy số lượng tài liệu phê bình văn học được trích dẫn ít hơn hẳn, thậm chí không có, so với các tài liệu xã hội học, nhân học, sử học, dân tộc học… Điều này không phản ánh sự chênh lệch trình độ giữa các ngành với nhau, mà sự chênh lệch về tiến độ. Để xóa bỏ sự chênh lệch này, đưa tiến trình phê bình văn học Việt Nam song hành cùng với các ngành khác, và quan trọng hơn, với thế giới, phê bình văn học phải mau chóng chuyển trọng tâm sang lối tiếp cận từ người đọc, tức phê bình hậu hiện đại.
Nếu phê bình tiền hiện đại là ngoại quan, hiện đại là nội quan, thì phê bình hậu hiện đại là nội - ngoại quan. Nhưng cái ngoại quan hậu hiện đại rất khác với cái ngoại quan tiền hiện đại. Phê bình tiền hiện đại lấy những yếu tố bên ngoài như con người xã hội và tính dục ấu thời của tác giả, trình độ văn hóa - văn minh của thời đại tác giả, tình trạng kinh tế và mâu thuẫn giai cấp của xã hội trong đó tác giả sống, như là các yếu tố đã biết, coi đó là nguyên nhân để nhìn vào tác phẩm, lý giải tác phẩm như là kết quả. Còn phê bình hậu hiện đại, sau khi phá vỡ tính tự trị của văn bản, giải cấu trúc văn bản, thì nhìn ra các vấn đề ngoài văn bản. Các phương pháp phê bình dựa trên thông diễn học, nữ quyền luận, hậu thực dân/ thuộc địa… đều đề cập đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị, giới tính…, nhưng không phải là cái đã biết trước tác phẩm, mà như là cái chưa biết, đúng hơn cái chỉ biết sau khi tác phẩm dẫn đến. Như vậy, cái ngoại quan hậu hiện đại này không phải là những vấn đề ngoài tác phẩm, mà là vấn đề trong tác phẩm, không phải ngoài văn học, mà vẫn thuộc về văn học vì nó gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật, với mỹ học của tác phẩm cụ thể.
Phê bình hậu hiện đại, vì thế, không chỉ không xa cách với công chúng, hay nói theo cách nói đã trở thành nhàm chán là đã “đi vào cuộc sống”. Bởi, từ góc độ của mình, nó tham dự vào cuộc sống, dự báo, đánh động và góp phần giải quyết những vấn đề mà đương đại đặt ra. Hơn nữa, làm như vậy, phê bình văn học không còn đứng độc lập theo kiểu “hàn kê” nữa, mà liên lập với cách ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Nó đóng góp tư liệu và, quan trọng hơn, cái nhìn theo kiểu “trí tuệ của trái tim” cho sử học, khảo cổ học, dân tộc học, nhân học, xã hội học, kinh tế học, phát triển học, là những khoa học nghiêng về “trí tuệ của trí tuệ”. Ngược lại, nó cũng nhận được chừng ấy thứ của các ngành trên. Nếu nói liên ngành thì đây chính là một thứ liên ngành sơ khởi, vì nó tạo ra một tri thức liên ngành, một cái nhìn liên ngành. Văn học không chỉ là một sự kiện thẩm mỹ, mà còn là sự kiện lịch sử, xã hội, chính trị…, nên tiếp cận liên ngành là một việc làm hiển nhiên. Nhưng, còn một thứ liên ngành cao hơn, đó là cùng nhau giải quyết những vấn đề của Việt học. Đến với Việt học, trở thành Việt học, xa hơn Việt Nam học, theo cách riêng của mình là con đường để vượt qua những giới hạn kể trên, con đường đầy triển vọng của phê bình văn học và sáng tác văn học.
Đ.L.T
(TCSH329/07-2016)
Nhìn lại kiểu tác giả tự ý thức của văn học đổi mới: trường hợp Nguyễn Huy Thiệp - MAI ANH TUẤN
Ý thức đa ngữ trong văn học Việt Nam thời toàn cầu hóa - NGUYỄN VĂN THUẤN
Lý luận văn học Việt Nam sau 1975 - những giới hạn và sự hòa/hóa giải giới hạn - PHAN TUẤN ANH
Những giới hạn của phê bình văn học hiện nay - ĐỖ LAI THÚY
Những giới hạn của sự viết - NGUYỄN THANH TÂM
Trang thơ Việt Nam đương đại
Mê cung - ĐINH PHƯƠNG
Những mùa sương xám lạnh - TRẦN BĂNG KHUÊ
NGUYỄN THANH TÂM
những bàn chân
càng bước càng
lún sâu vào đất
(Giấc mơ Kapka - Trương Đăng Dung)
PHAN TUẤN ANH
Có thể chia sự vận động và phát triển của lý luận văn học Việt Nam sau 1975 thành ba giai đoạn, gắn với ba hệ hình văn học cơ bản là tiền hiện đại, hiện đại và hậu hiện đại liên quan đến những đặc trưng nghệ thuật, điều kiện (condition) về văn hóa và chính sách quản lý văn nghệ của các cấp lãnh đạo.
NGUYỄN VĂN THUẤN
Cho đến nay vẫn còn những khác biệt trong nhận thức về toàn cầu hóa nói chung và toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn học nói riêng. Trên đại thể, người ta xem toàn cầu hóa là quá trình Âu - Mỹ hóa.
MAI ANH TUẤN
Nghiên cứu văn học Đổi mới (1986) không thể bỏ qua việc tìm hiểu chủ thể sáng tác, nhân vật trung tâm, kẻ gây sóng gió, người đem đến phần lớn những diễn biến sinh động nhất trên văn đàn.
Cái mới - một cuộc gặp gỡ
Khi người ta trẻ… hai mươi năm sau - TRẦN NGỌC HIẾU
Văn học trẻ: lịch trình và những động hướng - ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Văn học số: không gian mới của văn xuôi Việt Nam đương đại - NGUYỄN VĂN THUẤN
Những tiếng nói mới - TRẦN TRIỀU LINH
Đừng bay đi tìm đôi cánh - YÊN VIÊN
Chỉ hót trong mưa - TẠ XUÂN HẢI
Trở về - LÊ MINH PHONG
Vì sao bạn thành ra như vậy? - LÊ VĨNH TÀI
(Lê Minh Phong phỏng vấn nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc, các nhà nghiên cứu văn học Phan Tuấn Anh và Nguyễn Quang Huy)
TRẦN NGỌC HIẾU
1.
Nhớ lại những năm đầu thập niên 90, các cuộc thi văn chương lớn ở Việt Nam hầu như đều tìm được những tác giả trẻ để kỳ vọng: Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thanh Hà, Lưu Sơn Minh, Đặng Vương Hạnh, Nguyễn Thị Châu Giang…
ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự xuất hiện của một thế hệ những cây bút mới, trưởng thành từ một môi trường mới, nhiều gián cách với không gian của kháng chiến và kiến quốc thế kỷ XX, nơi mà ở đó, nhà văn trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
NGUYỄN VĂN THUẤN
Chúng ta đang sống trong kỉ nguyên số, internet và truyền thông. Chúng ta bị vây quanh bởi các thiết bị công nghệ số. Máy vi tính cá nhân, máy tính bảng, điện thoại thông minh, các thiết bị nghe nhìn và lưu trữ… được kết nối với mạng internet toàn cầu đang trở thành những vật dụng quen thuộc thường ngày.
TRẦN TRIỀU LINH
Ngày nay, nghệ thuật không đưa ra những đối tượng có thể diễn tả rõ ràng, để đi đến những khoái cảm thẩm mỹ, mà nó hướng tới làm ra những sản phẩm không-thể-diễn-tả được.
YÊN VIÊN
Truyện ngắn
Mấy tháng nay, tôi sống cùng nàng trong căn phòng đó. Căn phòng nhỏ xinh nằm tách biệt khỏi thành phố, có cửa sổ mở ra khu vườn trồng hoa hồng bạch, không hàng xóm láng giềng.
TẠ XUÂN HẢI
Truyện ngắn
Anh chẳng bao giờ quên được mùa mưa năm đó. Một tháng mười lăm ngày. Những sợi mưa dai và to bằng dây thừng, màu trắng đục, nhớt nhát và bốc mùi.
LÊ MINH PHONG
Truyện ngắn
Những chiếc lưỡi trơn nhậy của đêm lại trườn xuống và liếm lên mặt tôi, liếm lên mắt tôi rồi trườn vào tai tôi thì thầm về những vết thương ngọt ngào ấy.
LÊ VĨNH TÀI
Truyện ngắn
Hay những gì đã xảy ra trong quá khứ của bạn quá khủng khiếp và bạn chỉ muốn quên đi.
(Lê Minh Phong phỏng vấn các nhà văn, nhà thơ đương đại)
LÊ MINH PHONG
Tôi khóc
những chân trời
không có người bay,
lại khóc
những người bay
không có chân trời.
(Trần Dần)
MAI SƠN
Truyện ngắn
Anh định không sống nữa. Ý nghĩ đó nhẹ nhàng len vào đầu anh cùng một cảm giác dễ chịu vào khoảnh khắc sắp thức giấc sáng nay.
PHAN TUẤN ANH
“Một media mới xuất hiện trong lòng một nền văn hóa nào đó có tác động là biến đổi điều kiện tiếp nhận bằng giác quan, vốn có sẵn trong lòng nền văn hóa kia. Do đó, các media là những ẩn dụ (metaphores)…”.
(Mc Luhan)
NGUYỄN VĂN THIỆN
Truyện ngắn
Mình kể với ta rằng mình là một nhiếp ảnh gia nổi tiếng ở thành phố X. Ngày xưa, mình chụp hình đám cưới, chụp hình dạo công viên, khi đất nước mở mang, nhiều hội hè, mình chụp hình nghệ thuật.