Những cảm xúc bộc trực thời hậu chiến

10:04 22/04/2008
(Qua “Sau tách cà phê” của Nguyễn Trác, Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000.)1- Sau năm năm từ “Chiếc thuyền đêm” (năm 1995), hình như  “đến hẹn lại lên”, nhà thơ Nguyễn Trác lại ra mắt bạn đọc tập “Sau tách cà phê”.

Tập thơ này có 27 bài thơ là sự tiếp nối những suy nghĩ không nguôi ngoai của tác giả về thời hậu chiến, mặc dù chiến tranh đã lùi xa hơn một phần tư thế kỷ.
Cách đây năm năm, đọc “Chiếc thuyền đêm”, những bài thơ của Nguyễn Trác vẫn còn ám ảnh tôi, cứ mỗi khi đi bộ trên các đô thị Việt Nam dù Sài Gòn, Đà Nẵng hay Hà Nội, khi ngước nhìn lên những tấm biển quảng cáo chi chít như mặt giặc và những dàn ăng ten ngạo nghễ che khuất bầu trời thì bất giác tôi lại nhớ đến nhà thơ Nguyễn Trác.
Thơ Nguyễn Trác chính là một tấm lòng nói thay bao tấm lòng, sao cứ day dứt nuối tiếc những gì đã mất đi trước lối sống - nhịp sống hối hả thực dụng của kinh tế mở - kinh tế thị trường, nó cứ ngậm nhấm dần những hình ảnh, những kỷ niệm đẹp đẽ một thời của chúng ta.
Chính vì vậy, tôi đồng điệu với suy nghĩ của tác giả thời hậu chiến, thời kinh tế mở, thời kinh tế thị trường. Nhất là một tác giả như nhà thơ Nguyễn Trác đã từng sống qua chiến tranh khốc liệt.
2- Những vần thơ của Nguyễn Trác luôn bị xao động trước gió: Tập thơ này có nhiều câu thơ “đụng” đến gió, với những thang bậc khác nhau của gió đã lay động những cảm xúc của Nguyễn Trác. Đó là những cảm xúc thơ hay.
Hình như chi chít những khối nhà như bê tông - lô cốt, cảm giác thiếu không khí, nên tác giả mơ hồ cảm thấy “Đêm nay ngoài sông gió thổi còn rất mạnh” (Nỗi buồn đô thị);
Hạ Long là cảnh đẹp nổi tiếng thế giới, thế mà “Nhà em lên tầng cao/ Cũng không còn có gió” (Biển bị che khuất rồi).
Nhà thơ không ghìm được cảm xúc đã phải thốt lên: “Anh thèm ngọn gió trời/Giữa điều hoà nhiệt độ” (Giữa Sài Gòn ăn cơm với cá kho tộ) hoặc “Gió câm lặng nơi nóc nhà thủng lỗ/ Thăm thẳm là những ánh sao xa” “Không còn em/Bom đạn cũng tan rồi/ Nhưng một cuộc chiến tranh trong anh còn lại mãi /Trước nóc nhà gió vẫn đơn côi” (Và những bóng cây xưa)
Tác giả đã có nhiều câu thơ khác viết về gió khá đạt:
“Về vẻ đẹp ánh trăng / nét dịu dàng của gió” (Vào một tối mùa đông nào đó)
“Chí làm trai chí làm trai ngược gió” (Với bạn Đồng Nai)
“ Nhưng gió thì vẫn vậy / Cứ xôn xao...” (Trên bàn anh tập tranh Matiss).
“Em bảo em cũng vừa thả về sông ba con cá bạc / Ở nơi bắt đầu của gió ngày mai” (Viết trong chiều 23 tháng Chạp)
“Sáng sáng/ Người đàn bà dậy trước bình minh/ Chạy cùng những cơn gió trẻ” (Người đàn bà dậy sớm).
Gió là cái cớ làm thơ Nguyễn Trác cứ lay động trong lòng ta mãi.
3- Nguyễn Trác bức xúc với tầm nhìn thi sĩ bị che khuất: Đọc thơ Nguyễn Trác ta có thể xẻ chia với tác giả về nhịp độ đô thị hoá công nghiệp hoá làm cho ta tầm nhìn quen thuộc bị che khuất, môi trường, môi sinh sáng tác của các nhà thơ bị tàn phá, tác giả luôn bức xúc đối với tầm nhìn. Do vậy hiệu quả bài thơ được tăng lên rất nhiều.
“ Và nhà cao che khuất bớt chân trời” (Nỗi buồn đô thị)
“ Biển bị che khuất rồi / Nhà anh lên cao tầng / Nhà em lên cao tầng” (Biển bị che khuất rồi).
Và thấy “ghê ghê” khi đọc câu thơ của Nguyễn Trác “Những cao tầng che hết mùa thu” (Vào một tối mùa đông nào đó). Hoặc “Rồi bụi tre trong vườn bị chặt / Như hình ảnh một chân trời biến mất đi sau những công trình hiện đại / Linh hồn tre phiêu dạt cô đơn”. Đọc tập thơ này ta cứ lo ngại tới đây những cái gì còn bị che khuất nữa. Và có lẽ như Nguyễn Trác dự báo: “Cái vô tận của thế giới/ Được thay thế bằng cái vô tận của tâm hồn/ Nhưng tâm hồn yên tĩnh ít hơn” (Rồi bụi tre trong vườn bị chặt).
4- Nguyễn Trác viết về sự cô đơn mệt mỏi: Hình như nhà thơ nào cũng vậy luôn cô đơn trước thân phận làm người.
“Năm mươi tuổi chân như đã mỏi/ mà chùa Đồng chửa tới nơi”.
“ Và trái tim anh bắt đầu mỏi mệt/ Mũ áo thị dân dăm ước mơ quèn..
.” (Trong cái thời thừa công cụ để in); và thật là tâm hồn thi sĩ khi đau lịm viết lên “linh hồn tre phiêu dạt cô đơn” (Rồi bụi tre trong vườn bị chặt).
Im ắng quá chỉ mình anh với gió  (Biệt thự nhỏ nằm trên con dốc nhỏ)
5- Những câu thơ - Bài thơ hay trong tập thơ “Sau tách cà phê” :
Bài thơ tôi thích nhất đó là bài Quán tranh tre. Bài thơ này như một bức hoạ, như một ca khúc. Tôi đọc đi đọc lại vẫn thích thú. Tác giả viết bằng mắt, bằng tai và bằng cảm xúc thật. Do vậy có những câu thơ xuất thần: “Cô gái quê/ Bưng/ Những mẹt hàng / Như bưng cả mùa thu đậu phụ rán vàng” (Quán tranh tre)
Ngoài ra tập thơ này còn nhiều câu thơ hay ví dụ như: “Anh bảo - đôi khi chúng ta như loài chim lẩn thẩn / Cứ đùng đùng vỗ cánh thiên di” (Sau tách cà phê)
“Một người với chiếc ô hoa / Ngồi che cho một người xa cuối trời” (Bây giờ em đã về chưa)
Tập thơ còn có nhiều câu thơ lạ: “Doanh trại nhà binh như khách sạn / Đêm ếch nhái thường bất ngờ lên tiếng. (Phố mới).
Tập thơ “Sau tách cà phê” là sự tiếp nối lao động nghệ thuật có nhiều tìm tòi sáng tạo của Nguyễn Trác. Hiệu quả của tập thơ này là sự cảnh báo bạn đọc biết bao đổi thay trước thềm thiên niên kỷ mới. Chả nhẽ thi sĩ  Và trái tim anh bắt đầu mỏi mệt / Mũ áo thị dân dăm ước mơ quèn...


NGUYỄN VĂN HOA
(nguồn: TCSH số 143 - 01 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...