Nhìn lại một năm văn học, 2011: Cần có chỗ đứng thực chất cho tri thức văn chương

15:05 09/01/2012
Trong khi một số người viết mới xuất hiện hoặc không thuộc dòng “chủ lưu” cần được có những diễn đàn để có thể công bố tác phẩm, đối thoại, trao đổi một cách bình đẳng những vấn đề trực diện về nội dung và sáng tạo, thì điều này gần như là chuyện quá xa vời. Những gì được phổ cập trên mặt báo, sách xuất bản hiện thời quá thiếu tinh thần cống hiến, thiếu những tìm tòi nghiêm túc về nghề nghiệp và tri thức.

Nhà thơ Khánh Phương - Ảnh: tienve.org

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

KHÁNH PHƯƠNG


1.

Giới truyền thông vẫn chứng tỏ sự kém chú ý quan tâm, tác phong ít chủ động… khi tiếp tục bám theo những tên tuổi mà sự nổi tiếng mặc định đã được khai thác đến cũ kỹ, bệch bạc từ nhiều năm nay. Nếu chỉ nhìn vào mặt báo, sẽ thấy một không khí vui vẻ, nhàn tản của các sự kiện quảng bá, diễn xướng tác phẩm “mới” ở nhiều nơi, những lời khen ngợi hồ hởi hoặc góp ý cho “phải phép”. Thông tin xoay quanh tác giả tác phẩm hầu hết là những đánh giá cảm tính, nhiều khi có dụng ý, và vẫn gần như hoàn toàn vắng bóng những bài viết chỉ ra đâu là cái hay, là sáng tạo đóng góp cho nghề nghiệp và đời sống văn học. Mười năm, sau một số dịch chuyển về từ ngữ, một số ý tưởng về con người riêng tư lạc lõng, được hoan nghênh, vẫn lặp lại những cái đó trong “sáng tác mới” của mình, như một số nhà văn, nhà thơ hiện  nay, là điều khó lòng chấp nhận.

Ấn phẩm xuất bản, một trong những kênh truyền thông có khả năng mang lại hiệu quả sâu rộng, năm qua nở rộ những tuyển tập, tác phẩm mới. Series Hãy nói yêu thôi, đừng nói yêu mãi mãi, tập 3: Trái tim tỉnh thức (báo Tiền phong và Nxb Thanh Niên), Tuyển truyện ngắn các cây bút trẻ… (Nxb Thanh Niên), Anh sẽ lại cưa em nhé (Nxb Thời Đại), Hẹn gặp anh ở Hà Nội… tên gọi ướt át mùi mẫn, trình bày bắt mắt, chiếm vị trí ngon lành nhất trên các sạp phát hành phố Đinh Lễ. Có tác giả trình làng vài ba cuốn sách trong năm: Dương Thụy, với Trả lại nụ hôn, Cáo già gái già và tiểu thuyết diễm tình, Nhắm mắt thấy Paris… Nhưng khi cầm lên, đọc những truyện ngắn mới nhất của các tác giả có tiếng, như Di Li, Cấn Vân Khánh, Dương Bình Nguyên, Nguyễn Đình Tú, Phan Hồn Nhiên, Dương Thụy… sẽ thấy, so với những gì họ viết cách đây dăm bảy thậm chí mười năm, vẫn “hồn nhiên”, “triển vọng” và không có gì khác.

Mục tiêu kinh doanh đã khiến cho nhiều đơn vị xuất bản bám theo sự nổi tiếng sẵn có, không dám “mạo hiểm” với các tác giả mới, mà thực chất là do họ không đủ khả năng thẩm định cũng như bản lĩnh để đỡ đầu.

Báo chí, trong chuyên môn văn học, vốn ỷ lại hầu hết vào các tên tuổi “tiên chỉ” làng văn, càng thụ động hơn trong việc kiếm tìm, thông tin về tác giả mới, mà ít đầu tư cho sự nâng cao chính năng lực thẩm định cũng như chủ kiến của các nhà báo.

Như vậy, trong khi một số người viết mới xuất hiện hoặc không thuộc dòng “chính thống” cần được có những diễn đàn để có thể công bố tác phẩm, đối thoại, trao đổi một cách bình đẳng những vấn đề trực diện về nội dung và sáng tạo, thì điều này gần như là chuyện quá xa vời. Những gì được phổ cập trên mặt báo, sách xuất bản hiện thời quá thiếu tinh thần cống hiến, thiếu những tìm tòi nghiêm túc về nghề nghiệp và tri thức.

Những cuộc thi sáng tác văn học, vốn xác định mục tiêu chất lượng nghiêm cẩn, như Văn học tuổi Hai mươi (Nxb Trẻ), trong những năm gần đây, cũng có sự thay đổi về tiêu chí tuyển lựa và trao giải. Các tác giả được giải là những người kể chuyện có duyên, nắm được kỹ thuật dựng truyện, hơn là những người viết văn thực sự. Người viết văn thực sự, trước hết phải kể đến khả năng cảm xúc và rung động mãnh liệt với thế giới tâm hồn bản nguyên của con người. Khả năng này sẽ giữ cho anh ta cái nhìn trung thực về đời sống. Cùng với thời gian, sự học hỏi, người viết mài sắc cho mình năng lực cảm nhận về thế giới và con người theo một cách riêng  biệt, không ai có thể bắt chước, rồi từ đó, có khả năng đưa ra một thế giới sáng tạo nghệ thuật không lặp lại, sâu sắc, làm mới mẻ những nội dung rất nhiều nhà văn khác đã viết, tạo ra một thế giới kỳ lạ không bị bó buộc vào những ranh giới sẵn có.

Năm qua, có thể kể tới cố gắng của một vài công ty xuất bản như Phương Nam, nhanh chóng tập hợp, thành lập “Tủ sách Kiệt tác văn chương thế giới”, “Tinh hoa đương đại”, “Tủ sách lịch sử”… giới thiệu đến bạn đọc những tác phẩm văn chương cổ điển của Nhật Bản: Nỗi lòng (Natsume Soseki), Thất lạc cõi người (Dazai Osamu)… tiếp sau hiệu ứng của dòng văn học Nhật ăn khách đương đại, cũng như các tập truyện ngắn tác giả trẻ gây nhiều chú ý: Lời tiên tri của giọt sương (Nhật Chiêu), Mùi (Trần Nhã Thụy), Ngón tay út (Nhã Thuyên)…

Nhà văn đàn anh Nguyễn Quang Lập “đẻ” liền 2 cuốn sách nhan đề rất hậu hiện đại, Chuyện đời vớ vẩnVụn ký ức. Lối viết trào lộng chua cay, cả đau xót phẫn uất gợi nhớ cụ Nguyễn Công Hoan xưa. Những bức thư tình của Trịnh Công Sơn được xuất bản, ngoài ý nghĩa tư liệu còn cho thấy nguồn năng lượng mạnh mẽ và hiện đại, ý thức văn học sâu sắc của người viết trong thời kỳ văn chương miền Nam.  

Cho dù lợi nhuận là mẫu số chung mà bất cứ Nxb nào cũng phải hướng tới, thì sự lựa chọn để có thể giới thiệu những giá trị văn học tinh hoa và đích thực luôn là lựa chọn khó khăn cũng như khôn ngoan, khi người làm sách buộc phải tìm ra cách thức để biến sự hấp dẫn của giá trị văn chương trở thành cái hấp dẫn một cách phổ cập.

2.

Nếu như trong thời gian gần đây, dư luận có rụt rè nói đến sự tham gia ý kiến của “giới chuyên môn” văn chương, trong những trường hợp cần đến sự thẩm định khoa học, khách quan, thì vẫn cần phải đặt lại câu hỏi, “liệu đã thực sự có một giới chuyên môn” hay chưa? Giới chuyên môn ấy từ khi hình thành tới nay đã đóng góp tiếng nói của mình như thế nào?

Các nhà nghiên cứu, phê bình, các nhà văn nhiều kinh nghiệm trong sáng tác cũng như thẩm định, là người đủ năng lực và uy tín để lên tiếng phân xử, ví dụ một tác phẩm có “dâm ô đồi trụy” hay có “tìm tòi về nghệ thuật” hay không. Nhưng lại chưa có một môi trường tranh luận cởi mở và thực sự tôn trọng ý kiến của những người làm nghề. Số ít người đang cầm bút, dốc lòng tận lực cho những giá trị nghề nghiệp phải được coi là “giới chuyên môn”, được tôn trọng, nhưng chính họ cũng chưa ý thức đầy đủ về điều này.

Chính vì vậy, sau khi đã có ý kiến chính thức của “giới chuyên môn”, cuốn sách Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông (Nguyễn Vĩnh Nguyên) không dâm ô, đồi trụy như bị quy kết, một nhà quản lý đã tuyên bố: “Sẽ thành lập Hội đồng thẩm định cấp Bộ để đánh giá lại (!) sao cho không để lọt những cuốn sách có sự bất thường (!) vào đời sống đọc sách của toàn dân” (dantri.com,11/ 12/ 2011).

Nếu như tiêu chí để cho phép lưu hành một cuốn sách là phải “bình thường” (!) không có những biểu hiện “bất thường” thì thiết nghĩ, các nhà văn không cần phải mất công sáng tạo làm gì. Bởi vì bản chất sự sáng tạo phải là tìm ra những ý nghĩa “không bình thường” từ đời sống, giúp bạn đọc nhận thức thế giới trong những sắc thái “không bình thường”, đó mới chính là động lực để phát triển và hiểu biết về con người.

Chỉ chấp nhận cái “bình thường” tức là giết chết sáng tạo.

Năm 2011, lần đầu tiên có sự ra mắt, dù chưa hoàn toàn đầy đủ, bộ Sách giáo khoa văn học ở bậc Tiểu học, bộ sách tham khảo duy nhất hiện nay, ngoài sách chính thống từ Bộ Giáo dục, của nhóm soạn giả, nhà giáo Phạm Toàn.

Trong khi việc dạy và học văn trong nhà trường hiện nay chỉ có thể tạo ra những “cỗ máy trả bài”, tầng lớp “người đọc” không được trang bị hiểu biết và cách thức cơ bản để tự đọc ra “thông điệp” cũng như những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn học, thì việc công bố một bộ sách GK có cách dạy học hoàn toàn mới là hành động thiện tâm và dũng cảm. Bằng cách trang bị cho học sinh hiểu biết về các hoạt động của cảm xúc và tư duy (đồng cảm, tưởng tượng, liên tưởng, các loại hình ngôn ngữ nghệ thuật), bộ sách hướng tới việc giúp người đọc đặt mình vào địa vị của người sáng tác, đi lại con đường mà người sáng tác đã đi, để khám phá tổ chức nghệ thuật của tác phẩm, dần dà trao cho người đọc trải nghiệm, cách thức và năng lực của người sáng tạo. Đó chính là lối dạy học cần thiết để giúp đào tạo những thế hệ người đọc mới, mặc dù về nội dung cụ thể của bộ sách, còn nhiều điểm đáng tranh cãi và bổ sung.

Phê bình văn chương, hiểu theo nghĩa đầy đủ, chính là hoạt động tự ý thức của văn học. Người viết phê bình là tầng lớp tinh hoa của người đọc, nhưng đồng thời cũng đại diện cho ý thức của lớp người sáng tác. Không phải một thứ cân đo đong đếm theo những tiêu chí áp đặt từ sách vở xa lạ, mà nó chính là sự thấu hiểu và làm hiển lộ rõ ràng tư duy cũng như những mô thức của sáng tạo. Là văn chương tự định hình nó.

Năm qua, ngoài các công trình phổ cập về lý luận, xuất hiện một số cuốn sách đưa đến cái nhìn mới mẻ: Thi ca nết đất (Lê Thiếu Nhơn) bình thơ, nhận định tác giả theo lối trực giác, bám theo rung động và cảm xúc, theo lối Hoài Thanh hồi đầu thế kỷ XX. Cuốn sách chưa bộc lộ được nhận định cả quyết, mang tính chuyên môn cao trong việc tuyển lựa và đánh giá tác giả. Suy tưởng, Giấc mơ, Viết… (Khánh Phương) chỉ ra những biểu hiện nghệ thuật và tiêu chí cụ thể để định hình những chuyển biến trong tư duy và tổ chức sáng tạo của các nhà văn đương đại Việt Nam cũng như thế giới. Cuốn sách còn mang tính ngẫu hứng, chưa thật đầy đủ, hệ thống trong tổ chức nội dung.

Phê bình văn học, Con vật lưỡng thê ấy (Đỗ Lai Thúy), trình bày những nắm bắt của riêng tác giả với những lý thuyết văn học quan trọng của thế kỷ XX, và kết quả nghiên cứu thế giới nghệ thuật của một số nhà văn trong nước. Thể hiện công phu và đầu óc tìm tòi nghiêm túc, tôn trọng giá trị nghệ thuật của người làm phê bình thuộc hàng nghiêm túc nhất hiện nay, nhưng cuốn sách vẫn chưa nhiều sức hấp dẫn với bạn đọc bởi tiêu chí tuyển lựa nhân vật và lối viết còn điển phạm, nhiều khi cũ kỹ, chưa bộc lộ nhiều sự phóng túng của sáng tạo.

Giới chuyên môn hữu năng, lớp người đọc văn chương đích thực và người phê bình sáng tạo, là ba góc độ của cùng một công việc. Đó là, phải tạo ra chỗ đứng thực chất cho tri thức và thái độ khoa học trong đời sống, cũng như tạo lập một xã hội có mục tiêu dân trí.

3.

Văn học Việt Nam đang ở đâu, và là thế nào so với khu vực và thế giới? Sự tụt hậu của người viết trong nước, kể cả so với khu vực, là tụt hậu về nhận thức nghề nghiệp cũng như kiến thức. Người viết trẻ trong nước say sưa với lối miêu tả công thức sáo mòn về nỗi cô đơn, sự éo le của môi trường sống xung khắc với kiểu tâm hồn thơ mộng chết yểu, hay những cơn nổi loạn đồng bóng bế tắc, những ly kỳ quẩn quanh của đời sống thành thị chật hẹp… (văn xuôi), nhập đồng với những tuyên ngôn và hình thức vay mượn chưa đến nơi đến chốn. Phần nhiều người viết trẻ tuổi vẫn dừng ở “làm mới”, sửa đổi và xê dịch phần từ ngữ, chứ chưa sáng tạo được ý tưởng mới (thơ). Trong khi đó, sáng tác văn chương trong khu vực đã vượt qua từ lâu giai đoạn kể chuyện bằng tình tiết, thân phận, phản ánh vui buồn, cảm xúc của người viết trong sự lệ thuộc vào diễn biến của đời thực. Thơ ca hay truyện ngắn, đối với người viết trẻ trong khu vực là bộc lộ những sáng tạo mạch lạc của tư duy trong trạng thái tràn đầy cảm xúc. Sự “giải thiêng” hay băng qua tất cả những ranh giới ước lệ mà trí tuệ chừng mực của con người tự bày đặt ra, như quỷ thần, cái hiện hữu và không hiện hữu, “chủ và khách quan”… Trong khu vực có nhiều diễn đàn quốc gia và nhóm các quốc gia, để cùng trao đổi về văn học nghệ thuật cũng như giới thiệu các tác giả xuất sắc của mình, như: International Literary Award, Bintan Art Festival, The Majelis Sastra Asia Tenggara, The SEA Write Award, The Anugerah Tun Seri Lanang, (khu vực) Ubud Writers and Readers Festival, The Sagang, Art Award, The Highest Arts Awards… (Indonesia, Singapore). Thông qua các diễn đàn, những tên tuổi nhà văn, nhà thơ được quảng bá trong khu vực và tới thế giới: Marhalim Zaini, Nurhayat Arif Permana, Ahma Zaim Rofiqi, Hana Francesca, Isa Kamari, Mariano L. Kilates…

Không cần bi quan, tự ti, nhưng người viết trẻ trong nước còn phải chủ động học hỏi rất nhiều điều để theo kịp mặt bằng chung trong khu vực. Trước hết, họ phải đủ bản lĩnh để không đặt ra cho mình những mục tiêu dễ dãi, đủ mẫn tuệ và cứng cỏi để tự mình lựa chọn đâu là con đường và người thầy đích thực.

K.P

(SH275/1-12)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.