Nhạc sĩ Phạm Tuyên - những ca khúc hay về Đảng và nhân dân

14:49 03/04/2020


THANH TÙNG

Tác giả đến thăm nhạc sĩ Phạm Tuyên nhâp dịp ông được Giải thưởng Hồ Chí Minh

1. Hơn 60 năm trên con đường âm nhạc, nhạc sĩ Phạm Tuyên luôn có những tác phẩm đồng hành cùng lịch sử. Ông nổi tiếng với khá nhiều ca khúc thuộc nhiều đề tài, và viết cho nhiều lứa tuổi. Những ca khúc viết cho thiếu nhi, những bài đồng dao của Phạm Tuyên không chỉ có trẻ thơ mà người lớn cũng say sưa hát như: Cô và mẹ, Cả tuần đều ngoan, Trường của cháu đây là trường mầm non, Cánh én tuổi thơ, Tiến lên đoàn viên…

Nhạc sĩ Phạm Tuyên sáng tác rất nhanh, trong đó có những ca khúc đánh dấu một thời điểm lịch sử, một thời khắc thiêng liêng, một sự kiện trọng đại, một chiến dịch. Thời kỳ không quân Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, Phạm Tuyên có khá nhiều ca khúc vừa hùng tráng, vừa trữ tình. Lên Quảng Ninh, ông viết Bài ca người thợ mỏ Những vì sao ca đêm. Vào tuyến lửa khu Bốn ông viết Quảng Bình chiến thắng, Bám biển quê hương, Đêm Cha Lo. Vào Trường Sơn huyền thoại ông có bài Yêu biết mấy những con đường. Trước đó về làng Hà Xá, Hà Tây, nơi có phong trào thanh niên “luyện sức thật dẻo dai” chờ ngày nhập ngũ ông viết Chiếc gậy Trường Sơn, một ca khúc thúc giục hàng triệu thanh niên miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Vào Thanh Hóa, đến Hàm Rồng ông viết Bài ca tuổi trẻ Nam Ngạn anh hùng. Hướng về miền Nam anh dũng kiên cường ông viết Những cánh chim Hồng Gấm, Tiếng hát những đêm không ngủ. Hòa cùng nhịp đập với phong trào âm nhạc chống chiến tranh ở Mỹ ông viết Gảy đàn lên hỡi người bạn Mỹ, v.v.

Bài Từ làng Sen, nhạc sĩ Phạm Tuyên viết ngay sau khi Bác vừa đi xa; Như có Bác trong ngày đại thắng, viết trước khi kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử hai ngày; Gửi nắng cho em, viết “khi hai miền cùng vào một vụ chiêm… Cùng vào mùa một ngày vui thống nhất…”; Con kênh ta đào, viết khi “Ngay trên công trường ta đã mến yêu nhau”... Ca khúc Chiến đấu vì độc lập tự do được ông sáng tác ngay trong đêm đầu tiên của ngày xảy ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, đêm 17/2/1979 (thường được gọi bằng cái tên không chính thức là Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới). Vì thế có thể nói rằng các ca khúc của nhạc sĩ Phạm Tuyên là một biên niên sử bằng âm nhạc. Hay nói như nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thuỵ Kha thì ông là “Người đồng hành cùng lịch sử dân tộc”. Trong một bài viết, nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận xét: “Cuộc đời Phạm Tuyên là một pho tiểu thuyết bề bộn với rất nhiều cung bậc”.

Những ca khúc viết về Đảng là những mốc son trên con đường âm nhạc của Phạm Tuyên. Ông được đánh giá là một trong những người viết Đảng ca hay nhất với 3 bài từng được bầu chọn vào “tốp 10” là: Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng, Đảng đã cho ta cả mùa xuân, Màu cờ tôi yêu. Cả ba ca khúc đều giàu chất chính luận nhưng giai điệu lại rất nhẹ nhàng, ca từ bình dị, chân thành, dễ thuộc lời, dễ hát.

Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh ngày 2/1/1930. Tuổi ông cùng với tuổi Đảng. Từ tuổi thanh xuân ông đã say sưa ca ngợi Đảng và để lại những ca khúc hay nhất về Đảng. Ngay những ngày đầu hòa bình ở miền Bắc, bài Đảng đã cho ta một mùa xuân của Phạm Tuyên đã đi vào cuộc sống rất tự nhiên và hồn hậu. Hồi lên chiến khu Việt Bắc ông được giác ngộ về Đảng nhờ một số sách báo tiếng Pháp viết về chủ nghĩa cộng sản. Những ca khúc viết về Đảng của ông về sau là sự giải mã kiến thức, là sự giác ngộ lý tưởng cộng sản từ những cuốn sách đã đọc trong thời gian này. Từ câu “Chủ nghĩa cộng sản là mùa xuân của nhân loại”, của nhà văn chiến sĩ cộng sản Pháp Paul Vaillant - Couturier, Phạm Tuyên đã cảm hứng ra một giai điệu ấm áp, trữ tình: Đảng đã cho ta một mùa xuân. Đó là một mùa xuân đầy khát vọng, một mùa xuân lâng lâng xao xuyến giữa đất trời hòa vào nhịp sống của thời đại. Đảng đã cho ta một mùa xuân, con đường đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đó chính là đi tới một mùa xuân của dân tộc.

Được tiếp cận bài thơ “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” của Aragon bằng tiếng Pháp, Phạm Tuyên rất thích. Năm 1959, khi đọc bản tiếng Việt bài thơ do nhà thơ Tố Hữu dịch thì cảm xúc trong ông dâng trào và thăng hoa để hoàn thành ca khúc Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng. Với giai điệu tha thiết, tình cảm tin yêu, bài hát đã đến với rộng rãi quần chúng trong cả nước. Nhạc sĩ Phạm Tuyên tâm sự: “Khi phổ nhạc bài thơ này, tôi thích nhất câu: Đảng cho tôi màu sắc nước non nhà..., thể hiện sâu đậm tinh thần dân tộc của Đảng”. Từ đó Phạm Tuyên có một khúc tự sự đầy suy tư từ những câu thơ Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng với nhịp điệu gần giống như Quốc tế ca, trải dài một niềm tin: Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng/ Trước như tuổi xanh tôi nào biết được/ Máu tôi đỏ và tim tôi yêu nước/ Tôi chỉ biết là đêm tối mênh mông… Từ đấy lòng tôi sướng vui đau khổ/ Và tình yêu, căm giận hóa lời ca.

Hai bài có cảm hứng từ hai phía trữ tình và anh hùng ca nhưng đều nảy ra một căp phạm trù cho và nhận - khiến cho hai bài này như một cặp bài trùng trong các ca khúc ngợi ca về Đảng của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Sau ngày giải phóng, ông gặp nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu ở thành phố Hồ Chí Minh. Khi biết ông là tác giả bài Đảng đã cho ta cả một mùa xuân, Phạm Trọng Cầu nhận xét: “Đây là một bài ca chính luận nhưng rất lạ là giai điệu lại rất nhẹ nhàng và duyên dáng”. Cũng tại thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Tuyên viết Màu cờ tôi yêu, một kỷ niệm với Diệp Minh Tuyền. Đầu thập niên 1980, có lần ông nghe Diệp Minh Tuyền giãi bày: bây giờ viết về Đảng khó thật. Phạm Tuyên bảo đúng là khó nhưng không thể không viết, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Sau đó, trên một chuyến bay Diệp Minh Tuyền đưa cho Phạm Tuyên một bài thơ. Ông đọc thấy hay, trong đó có câu khi phổ nhạc ông cứ nhấn đi nhấn lại ý của tác giả: “Suốt đời lòng dặn giữ lời/ Đường dài muôn dặm chớ rời tay nhau…”.

Màu cờ tôi yêu, Đảng đã cho ta cả một mùa xuân Đảng đã cho ta sáng mắt sáng lòng trở thành cỗ xe tam mã bằng nhịp điệu âm thanh đưa nhiều thế hệ đến với lý tưởng cao đẹp. Cảm hứng về Đảng là nguồn sáng tạo phong phú của rất nhiều nghệ sĩ, trong đó có các nhạc sĩ. Rất nhiều nhạc sĩ có ca khúc ca ngợi Đảng, nhưng để có được một giọng ca ngợi Đảng vừa sâu sắc vừa chân thành, vừa mượt mà và đầy ấn tượng như Phạm Tuyên thì không phải là nhiều. Ca từ, giai điệu các ca khúc của Phạm Tuyên rất mộc mạc, chân thành, tạo ra sự gần gũi giữa Đảng và dân, dễ thuộc lời, dễ hát. Sự cộng hưởng giữa người nghệ sĩ và quần chúng tạo ra sức sống lâu bền của ca khúc.

2. Sinh thời, có mấy ai thấu hiểu được tấm lòng trung với nước của học giả Phạm Quỳnh. Vì cụ thể hiện tấm lòng yêu nước theo cách của mình: Tiếng là nước, có tiếng mới có nước, có Quốc văn mới có Quốc gia. Tiếng ta còn nước ta còn. Cụ Phạm là người nhọc nhằn với chữ Trung.

Đến Phạm Tuyên, con trai áp út của cụ, lại vì chữ Trung mà đã từng bị mang tiếng là… bất hiếu. Ấy là vì có những người móc máy từ những ca khúc bất hủ của ông về đất nước, về Bác Hồ, về Đảng. Suốt cuộc đời đi theo Đảng, không lúc nào ông buông bỏ niềm tin là góc khuất lịch sử của gia tộc, của cụ thân sinh sẽ được lịch sử làm sáng tỏ. Có thể nói ông là người vẹn toàn với chữ Trung nhưng rất nhọc nhằn về chữ Hiếu.

Có những người dấn thân trong một bối cảnh lịch sử phức tạp, đầy biến động và đầy thử thách. Bản thân họ cũng gặp những mâu thuẩn, bế tắc không thể giải quyết nổi dẫn đến những ứng xử đầy tính nghịch lý bởi ranh giới giữa cái đúng và cái sai không rõ ràng. Phạm Quỳnh là một nhân vật điển hình, nổi bật lên trong lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ cận - hiện đại, nhưng lại gây nên nhiều tranh luận với những ý kiến khác nhau. Gần đây, nhiều tác phẩm với hàng nghìn trang sách của cụ Thượng Chi đã được in lại; nhiều bài viết nhận dạng lại chân dung nhân vật Phạm Quỳnh đã được đăng tải trên các tờ tạp chí, các tờ báo có số lượng phát hành lớn là một tín hiệu rất đáng mừng. Cụ Thượng Chi đã trở lại vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam và trong tình cảm của đông đảo độc giả. Trong tiến trình đổi mới, đất nước ngày càng dân chủ, công bằng, văn minh, đã có một cách nhìn khác về những nhân vật từng bị đối xử không thấu tình đạt lý. Mỗi lần vào Huế thăm mộ cụ thân sinh, nhạc sĩ Phạm Tuyên thường bày tỏ niềm vui và niềm tin về sự cởi mở của giới nghiên cứu trong việc nhìn nhận đánh giá lại các nhân vật lịch sử. Ông rất mong muốn được chứng kiến một sự giải tỏa về cụ thân sinh và gia đình mình.

Có những lúc gặp câu hỏi khó, nhạc sĩ Phạm Tuyên vẫn cười và dẫn lời của tỷ phú Bill Gates: “Cuộc sống vốn không công bằng, phải tìm cách thích nghi và vượt lên nó”. Đúng như thế, cuộc sống vốn không công bằng với gia đình Phạm Tuyên nhưng ông đã hòa nhập, thích nghi để vượt qua mọi trở ngại, vượt lên chính mình. Ông có người em ruột tốt nghiệp đại học Văn Khoa, ở miền Nam không tránh khỏi đi lính. Sau này anh em gặp nhau ở Mỹ, chú em nói: “Cây gậy Trường Sơn của anh văng đến đâu là em phải chạy khỏi chỗ đấy…). Lần đầu Phạm Tuyên qua Mỹ, nhiều người nể trọng nhưng cư dân mạng bên ấy lắm kẻ chửi ông ra rả, cho ông là đứa con bất hiếu. Ông chỉ cười, không tranh luận, khi về đến nhà mở mạng lại thấy có người viết: Phạm Tuyên là người con rất có hiếu.

Ông thường nói cuộc đời nhiều khi cũng gặp trắc trở nhưng bản thân tôi lại may mắn được gặp nhiều người tốt. Ví dụ: Sau khi tốt nghiệp Trường Lục quân về làm Đại đội trưởng Trường Thiếu sinh quân ông được Hiệu trưởng là Lê Chiêu giới thiệu vào Đảng. Sau này gặp lại ông Lê Chiêu, nhạc sĩ Phạm Tuyên hỏi, việc anh giới thiệu một người có lý lịch như tôi vào Đảng thì có gặp phiền phức gì cho bản thân hay không? Ông Lê Chiêu bảo, cũng có chút ít thôi nhưng không sao; ai hỏi thì mình bảo Tuyên là người tốt, cần được kết nạp, mà nếu có là con quan Thượng thư thì chắc phải là con của bà ba, bà tư, tức là thuộc thành phần không bóc lột... Lúc đó đâu có ai biết rằng Phạm Tuyên là con của bà cả, và quan Thượng thư đầu triều như cụ Phạm Quỳnh lại chỉ có duy nhất một vợ.  

Những ca khúc viết về Đảng chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Tuyên, là những mốc son trên con đường sáng tác nghệ thuật của ông. Với những ca khúc kể trên, Phạm Tuyên được đánh giá là một trong những người viết Đảng ca hay nhất, là nhạc sĩ thành công nhất khi viết về đề tài ca ngợi Đảng.

T.T
(TCSH373/03-2020)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN VIỆT ĐỨC1.Về bản sắc văn hoá dân tộc.Mỗi dân tộc đều có một tiếng nói riêng, một cốt cách riêng được phản ánh thông qua những giá trị tinh thần và vật chất cụ thể, đó là bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đó.

  • VĨNH PHÚCNghiên cứu, phê bình, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Hò và Lý, kể cả những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.

  • MẶC HY                Hồi ký "Lúa vàng! Lúa vàng trên cánh đồng làng, tang tình tang, tang tình tang... Đêm nay, gặt mà lúa về... ta đập mà ta xay, ta giã mà ta giần..."

  • MAI VYSự sáng tạo nghệ thuật của giới nghệ sĩ biểu diễn xuất phát từ cảm xúc trước tác phẩm, trước cuộc sống. Đó là đặc thù trong quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Mối quan hệ đó bao giờ cũng là mối quan hệ có tính chất cảm tính. Người nghệ sĩ chân chính nào cũng có khả năng cảm xúc rất nhạy bén trước đối tượng được thể hiện. Họ có khả năng lồng trí tưởng tượng vào trong quá trình sáng tạo cốt để thâm nhập sâu hơn vào bản chất của các sự vật.

  • NGUYỄN THỤY KHACó thể nói, khi có loài người là có âm nhạc. Thực ra những âm thanh trong thiên nhiên, vũ trụ có trước loài người. Nhưng loài người không chỉ nghe được nó như loài thú chỉ đạt tới cảm xúc, mà còn nhận thức nó, bắt chước nó để tạo ra những âm thanh của mình. Một cành cây hay một khúc xương, người làm ra cây sáo. Sợi dây cung trở thành dây đàn. Một tấm da thú căng ra là thành cái trống.

  • MAI VYÂm nhạc là một bộ môn nghệ thuật có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, từ làn điệu dân ca mộc mạc, từ nét nhạc tấu đơn giản của cây đàn nghiệp dư, đến những bản a-ri-a hết sức phức tạp trong ô-pê-ra hay các hình thức âm nhạc giao hưởng khác nhau như liên khúc giao hưởng, Trường ca giao hưởng.

  • NGUYỄN THỤY KHAVới độ dày gần nửa mét, gồm 7 quyển sách chia làm 5 tập (có tập 2 và tập 5 gồm 2 quyển) và bìa sách trình bày đẹp, trang trọng, bộ sách “Hợp tuyển tài liệu Nghiên cứu - Lý luận - Phê bình âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX” là bộ sách âm nhạc đồ sộ và công phu nhất của ngành âm nhạc từ trước đến nay do Viện Âm nhạc Việt chủ biên và ấn hành vừa giới thiệu trước công luận gần đây.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã gần một năm, Anh từ biệt trần gian về cõi vĩnh hằng, tâm tưởng tôi vẫn vấn vương với Anh, vẫn luôn mường tượng thấy Anh với nụ cười tươi tắn, rất hồn nhiên, lại nhiều lúc thấy Anh đang mơ màng chìm trong một thế giới riêng tư xa thẳm nào đó.

  • NHẤT LÂMVâng.Ca khúc thời ấy thật hào hùng, sôi sục và đầy lãng mạn.Đó là đêm trước của tháng Tám năm 1945, những năm tháng của phong trào Việt Minh chuẩn bị cho ngày toàn dân vùng lên đánh đổ mọi thế lực thù địch để giải phóng dân tộc, đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do. Và cái mốc đó, theo tôi là từ ngày cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn) năm 1941.

  • VIỆT ĐỨCVề với Trường Sơn, về với kỷ niệm của một thời khói lửa đạn bom là tiếng lòng, là tâm nguyện của nhiều hội viên Hội nhạc sỹ Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế kể từ sau ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam 30/4/1975. Và sau gần 30 năm, mùa xuân 2004, tâm nguyện ấy đã trở thành hiện thực khi kỷ niệm của một thời chiến tranh cứ ào ạt ùa về theo bước chân các nhạc sỹ trở lại tuyến biên giới miền Tây A Lưới.

  • PHAN THUẬN THẢOGagaku - Nhã nhạc - là loại hình âm nhạc cung đình của Nhật Bản, đối lập với Zokugaku, tức âm nhạc dân gian. Thuật ngữ Gagaku được tiếp thu từ Trung Hoa cùng với sự tiếp nhận một bộ phận các nhạc khí và bài bản từ hệ thống âm nhạc cung đình phong phú và đặc sắc của đất nước Trung Hoa rộng lớn và giàu truyền thống văn hoá.

  • LÊ PHÙNGThế là không còn phút giây mong ngóng, đợi trông - “Ngày em đến đôi mắt long lanh, thơ ngây mơ màng, ngày em đến đôi má hây hây hương thơm nồng nàn...” Bởi chàng nhạc sĩ lãng tử ấy đã ra đi, về với cõi vĩnh hằng. Còn đâu nữa bóng hình của gã si tình say mê, đợi chờ ngày em đến.

  • Nhà thơ - Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo là một tên tuổi nổi tiếng như một nghệ sĩ đa tài Cầm Kỳ Thi Họa trong làng văn học nghệ thuật Việt . Ông là Ủy viên Hội đồng Thơ Hội Nhà Văn Việt Nam, người sáng lập và phụ trách tờ báo Thơ, nay là tạp chí Thơ; ông cũng là một trong những ngưới sáng lập ra Ngày Thơ VN.

  • DƯƠNG BÍCH HÀĐến hẹn lại lên - Festival Huế 2006 đã cận kề. Năm nay, ngoài các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ; các lễ hội, kịch, tuồng... đặc sắc của Huế, ban tổ chức (BTC) Festival nhấn mạnh một số trọng tâm như: Giao lưu nhã nhạc Việt Nam - Nhật Bản - Hàn Quốc; không gian văn hoá cồng chiêng (nhân cồng chiêng được công nhận là di sản văn hoá); có dàn giao hưởng dân tộc; chương trình thử nghiệm đưa âm nhạc điện tử, nhạc Jar của Pháp kết hợp với âm nhạc truyền thống Huế, âm nhạc Phật giáo; và chương trình âm sắc Việt...

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGCó ngày bỗng dưng thấy lòng thật quạnh hiu. Một nỗi cô đơn nào đó khôn tả xâm chiếm tâm hồn. Tôi đi hoài, lang thang vô định trên những con đường phố Huế xanh xao ánh đèn vàng, bất chợt lòng vang lên giai điệu quen thuộc một ca khúc nào đó của Trịnh Công Sơn. Tự hát cho riêng lòng mình và thấy nỗi buồn vơi đi, lòng cơ hồ bằng an và niềm vui trở lại.

  • NGUYỄN VIỆT ĐỨCQua tiến trình phát triển của lịch sử âm nhạc thế giới, riêng trong lĩnh vực ca khúc chúng ta đều biết có những ca khúc là của mọi thời đại, có những ca khúc chỉ của một thời, có những ca khúc chỉ của một dòng nhạc phục vụ cho nhu cầu của một lớp công chúng riêng nào đó, có những ca khúc lại phù hợp với khá nhiều lứa tuổi và đông đảo công chúng, có những ca khúc chỉ của một vài ngày, có những ca khúc mãi mãi nằm trên giấy...

  • NGUYỄN THỤY KHAĐọc Dòng nước trong (Ca khúc Bích Anh), Nxb Đà Nẵng, 2006

  • HOÀNG DIỆP LẠCCó sự gắn kết nào đó gần như là định mệnh giữa hai con người Trịnh Công Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng. Sơn và Hoàng có cùng quê quán ở huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Và cả hai đã sinh ra ở miền cao nguyên, nơi bụi đỏ và sương mù hoà trộn, tạo thành những hạt huyết dụ trôi chảy theo các mạch máu trong thân thể của những con người xứ bụi mịt mùng.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Kỷ niệm 6 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 1/4/2001 - 1/4/2007)Với dòng - sông - Trịnh, đi về biển rộng là một cuộc hành trình trở về với nguồn cội. Dòng sông tìm về biển cả để thấy được sự mệnh mông, hùng vĩ và tuôn trào của biển cả. Tuy nhiên đấy cũng là sự bắt nguồn cho những vết xước trầm tích trong lòng người ở lại - như cọng rễ hoang nay mới đủ sức đâm lên một mầm nhói!

  • NGUYỄN THỤY KHAVào khoảng năm 1962 ở miền Bắc, bỗng rộ lên một bài tình ca ngắn mang tên “Giã từ”. Bài hát được truyền miệng rộng rãi và nếu có ai đó ký âm thành văn bản thì đều ghi là bài hát Liên Xô (CCCP).