Người thợ cạo

09:24 16/07/2009
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

Văn hào William Saroyan (Ảnh: Internet)

Do thế, cuối cùng tôi đi đến một bác thợ cạo người gốc Armenia ở phố Mariposa tên Aram, vốn là một nông dân chính nòi hay có thể là một thợ rèn, hay có thể là một triết gia. Tôi chả biết. Tôi chỉ biết rằng bác có một cửa tiệm nhỏ ở phố Mariposa và trải qua hầu hết thời giờ của bác để đọc báo chí tiếng Armenia, quấn thuốc lá, hút chúng, và ngắm nhìn thiên hạ đi qua. Tôi không bao giờ thấy bác làm một chầu hớt tóc hay cạo râu cho một người nào, dù vậy tôi cho rằng có một hay hai người vì nhầm lẫn đã bước vào trong cửa tiệm của bác.

Tôi đến cửa tiệm của Aram ở phố Mariposa và đánh thức bác dậy. Bác đang ngồi ở một cái bàn nhỏ với một cuốn sách tiếng Armenia mở ra trước mặt, vừa ngủ.

Tôi nói bằng tiếng Armenia, Bác sẽ hớt tóc cho tôi chứ? Tôi có hai mươi lăm xu.

A, bác nói, ta hân hạnh gặp cháu. Cháu tên gì? Hãy ngồi xuống. Trước tiên ta sẽ làm cà phê. A, té ra cháu có một cái đầu tuyệt hảo.

Mọi người muốn tôi đi làm một chầu hớt tóc, tôi nói. Bác có thể làm được chứ? Bác có thể cắt trụi nó đi, để trong một thời gian dài lâu, họ sẽ không nói năng gì về nó nữa.

Cà phê, bác thợ cạo nói. Trước tiên chúng ta hãy nhấm nháp chút đỉnh cà phê cái đã.

Bác mang đến cho tôi một tách cà phê, và tôi ngạc nhiên không biết nó ra làm sao, vì tôi chưa từng được uống cà phê trước khi gặp bác, có lẽ là người thú vị nhất trong toàn thành phố. Tôi biết bác là một con người phi thường từ cái lối bác thức dậy khi tôi đi vào cửa tiệm, từ cái lối bác nói chuyện, và đi, và làm điệu bộ. Bác vào khoảng năm mươi và tôi thì mười một. Bác chẳng cao hơn tôi là bao và chẳng nặng hơn, nhưng khuôn mặt bác là khuôn mặt của một con người đã liễu ngộ, kẻ hiểu biết, người thông thái, và dù rằng yêu đương mà không phải là không hảo tâm.

Khi bác mở mắt ra, cái nhìn của bác dường như nói, Thế giới à? Ta biết tất cả về thế giới. Sự xấu xa và biến lận, sự thù ghét và sợ hãi, sự thối tha và đồi trụy. Mặc dù thế, ta yêu tất cả nó.

Tôi nhấc cái tách lên và hớp cái thứ cà phê đen nóng. Nếm hương vị của nó thì tuyệt hơn bất cứ thứ gì mà tôi đã từng nếm trước đây.

Ngồi xuống, bác nói bằng tiếng Arrmenia. Ngồi xuống, ngồi xuống. Chúng ta không có việc gì để làm. Chúng ta không có nơi nào để đi. Tóc cháu sẽ không có mọc trong một giờ đâu mà!

Tôi ngồi xuống và cười bằng giọng Armenia, và bác bắt đầu kể cho tôi về thế giới.

Bác kể cho tôi về ông chú Misak của bác, cái kẻ sinh ra ở Moush. Chúng tôi uống cà phê và sau đó tôi ngồi vào trong ghế dựa và bác bắt đầu hớt tóc tôi. Bác cho tôi cái đầu hớt tóc tồi nhất mà tôi chưa từng có được, tồi hơn nhiều những đầu tóc mà tôi đã được hớt ở trường dạy hớt tóc bên đường tàu, miễn phí, nhưng bác đã kể cho tôi nghe về ông chú Misak khốn khổ của bác và con cọp gánh xiếc.

Bác nói với tôi, ông chú Misak khốn khổ của ta sinh ở Moush một thời gian lâu lắc trước đây và ông là một chàng trai hết sức hung hãn, mặc dù ông không phải là một tay đạo tặc. Ông dữ tợn với những kẻ cho rằng họ mạnh mẽ và ông có thể đấu vật với bất cứ chàng trai nào trong toàn thành phố, và nếu cần, cha họ và mẹ họ đồng thời. Ông nội và ông ngoại và bà nội bà ngoại họ nữa, bác nói.

Do đó mọi người nói với ông chú Misak khốn khổ của ta, Misak, mày mạnh đấy, tại sao mày không trở thành một tay đô vật và kiếm ra tiền? Dó đó Misak trở thành một tay đô vật. Ông bẻ xương của mười tám lực sĩ trước khi ông hai mươi tuổi.

Tất cả những gì ông làm với tiền bạc của mình là ăn và uống và cho tụi trẻ nhỏ số còn lại. Ông không cần tiền.

A, bác nói, việc đó đã lâu rồi. Bây giờ mọi người đều cần tiền. Họ bảo ông rằng một ngày kia ông sẽ hối tiếc, và dĩ nhiên là họ đúng. Họ bảo ông rằng ông hãy quan tâm đến tiền bạc của mình vì một ngày kia ông không còn mạnh mẽ nữa và ông sẽ không có khả năng đấu vật, ông sẽ không có tiền. Và cái ngày ấy đến. Ông chú Misak khốn khổ của ta đã bốn mươi tuổi, và không còn mạnh mẽ nữa, và ông không có tiền. Họ cười nhạo ông và ông bỏ đi. Ông đi đến Constantinople. Sau đó ông đi đến Viên.

Viên? Tôi nói, ông chú Misak của bác đi đến Viên à?

Phải, dĩ nhiên, bác thợ cạo nói. Ông chú Misak khốn khổ của ta đi đến nhiều nơi trên thế giới. Ở Viên, bác nói, ông chú khốn khổ của ta không thể tìm ra việc làm, và ông gần chết đói, nhưng liệu ông có ăn cắp cái gì nhiều nhặn như một ổ bánh mì chăng? Không, ông không ăn cắp cái gì cả. Sau đó ông đi đến Berlin. Ở đó ông chú khốn khổ của ta cũng gần chết đói.

Bác đang hớt tóc tôi, trái và phải. Tôi có thể thấy tóc đen trên nền nhà và cảm thấy đầu tôi đang trở nên càng lúc càng lạnh trần lạnh trụi. Và càng lúc càng nho tí nhỏã ti. A, Berlin, bác nói. Đường phố và đường phố, và nhà và nhà, và người ta và người ta, nhưng không có một cánh cửa nào cho ông chú Misak khốn khổ của ta, không một căn phòng, không một cái bàn, không một người bạn.

A, Chúa ơi, tôi cầu nguyện, ấy là sự cô độc của con người trong thế giới. Sự cô độc gớm ghê kia của cuộc sống.

Và, bác thợ cạo nói, như thế ở Paris, như thế ở London, như thế ở New York, như thế ở Nam Mỹ, cứ như thế ở mọi nơi, phố và phố, nhà và nhà, cửa và cửa, nhưng không có chốn nào cho ông chú Misak khốn khổ của ta.

A, Chúa ơi, tôi cầu nguyện, hãy che chở cho cụ ấy. Cha trên thiên đàng ơi, hãy che chở cho cụ ấy.

Tại Trung Quốc, bác thợ cạo nói, ông chú Misak khốn khổ của ta gặp một người Ả Rập vốn là một anh hề trong một gánh xiếc Pháp. Anh hề người Ả Rập và ông chú Misak khốn khổ của ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ. Anh hề nói, huynh à, huynh có phải là một kẻ yêu thương con người và thú vật không vậy? Và ông chú Misak khốn khổ của ta nói, huynh à, tôi yêu thương con người và thú vật và cá và chim và đá và lửa và nước và mọi thứ thấy được và không thấy được. Và anh hề Ả Rập nói, huynh à, huynh có thể yêu đến cả một con cọp không, một con cọp rừng già dữ tợn? Và ông chú Misak khốn khổ của ta nói, huynh à, tình yêu của tôi đối với những con dã thú rừng già hung dữ thì vô hạn. A, ông chú Misak khốn khổ của ta là một con người bất hạnh.

A, Chúa ơi, tôi nói.

Anh hề Ả Rập rất lấy làm vui lòng khi nghe nói đến tình yêu của ông chú ta đối với những con dã thú của rừng già, vì bác ta cũng là một con người rất dũng cảm. Huynh à, bác ta nói với ông chú của ta, huynh có thể yêu một con cọp đủ để đặt cái đầu của huynh vào trong cái miệng đang há ra của nó không?

Hãy che chở cho ông ấy, Chúa ơi, tôi cầu nguyện.

Và, Aram, bác thợ cạo nói, ông chú Misak khốn khổ của ta nói, huynh à, tôi có thể. Và anh hề Ả Rập nói, huynh muốn gia nhập gánh xiếc không? Ngày hôm qua con cọp đã vô ý đóng cái mõm của nó lại quanh cái đầu của Simon Perigord khốn khổ, và gánh xiếc chẳng còn có người nào với tình yêu vĩ đại như thế đối với các sinh vật của Thượng Đế vô biên. Ông chú Misak khốn khổ của ta đã mệt mỏi về thế giới, và ông nói, huynh à, tôi sẽ gia nhập vào gánh xiếc và đặt cái đầu của tôi vào cái mồm đang há ra của con cọp thần của Thượng Đế mỗi ngày một chục lần. Điều đó không cần thiết, anh hề Ả Rập nói. Một ngày hai lần là sẽ đủ. Do đó ông chú Misak khốn khổ của ta đã gia nhập gánh xiếc Pháp ở Trung Quốc và bắt đầu đặt cái đầu ông vào trong cái mồm đang há ra của con cọp.

Gánh xiếc, bác thợ cạo nói, du hành từ Trung Quốc đến Ấn Độ, từ Ấn Độ đến Afghanistan, từ Afghanistan đến Persia, và ở đó, ở xứ Persia, việc đã xảy ra. Con cọp và ông chú Misak khốn khổ của ta trở nên những người bạn rất tốt. Tại Teheran, trong cái thành phố cổ xưa ấy, con cọp lại trở nên man rợ. Đó là một ngày rất nóng nực, và mọi người cảm thấy lười biếng. Con cọp càng lúc càng trở nên lười nhác và chạy quanh quẩn suốt ngày. Ông chú Misak khốn khổ của ta đặt cái đầu của ông vào trong cái mồm đang há ra của con cọp, tại Teheran, và ông sắp sửa lấy đầu ông ra khỏi mồm con cọp thì con cọp, đầy sự xuẩn ngốc của các sự vật đang sống ở trần gian, sập hai hàm răng nó lại.

Tôi ra khỏi ghế và nhìn thấy một người lạ trong gương. Chính tôi. Tôi sợ hãi và tất cả tóc tai của tôi đều ráo sạch. Tôi trả bác Aram thợ cạo hai mươi lăm xu và trở về nhà. Mọi người cười nhạo tôi. Krikor anh tôi nói anh chưa hề nhìn thấy một cái đầu tóc được hớt một cách ngu xuẩn như thế bao giờ.

Dù sao, việc ấy cũng hoàn toàn đúng.

Trong hàng tuần lễ, tất cả những gì mà tôi có thể nghĩ đến là về ông chú Misak khốn khổ của bác thợ cạo, kẻ đã bị con cọp gánh xiếc cắn đứt đầu, và tôi trông đợi đến cái ngày mà tôi lại sẽ cần đến một chầu hớt tóc, do thế tôi có thể đi đến cửa tiệm của Aram và lắng nghe câu chuyện của bác về con người trên thế gian, mất mát và cô độc và luôn luôn bị hiểm nghèo, câu chuyện buồn về chú Misak khốn khổ của bác. Câu chuyện buồn của mọi con người hiện sống.

VĨNH HIỀN dịch
(Trích tuyển tập truyện ngắn tiếng Anh,
Nhà xuất bản Moscou 1982)

(181/03-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhà văn Phillip Van Doren Stern sinh ra tại Wyalusing, bang Pennsylvania và lớn lên tại Brooklyn, New York. The Greatest Gift là truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông. Phillip Van Doren Stern đã từng gửi câu truyện này đi nhiều báo và tạp chí nhưng không nơi nào nhận đăng. Cuối cùng ông cho in truyện lên 200 tấm thiệp năm mới và phát cho bạn bè.

  • LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.

  • LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.

  • L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.

  • Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.

  • William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.

  • LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.

  • LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.

  • Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.

  • LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...

  • L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.

  • L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.

  • LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.

  • LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.

  • PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.

  • A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.

  • An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.

  • VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.

  • Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.

  • K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.