YÊN CHÂU
Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: tư liệu
Cứ nhìn một ông già 62 tuổi, tóc hoa râm, dáng người gầy gò, xương xẩu, ngồi bó gối trên chiếc ghế tựa, đợi từng giọt cà phê rơi tí tách, thỉnh thoảng lại khúc khắc ho, tiếp sau đó là những nhịp thở mệt mỏi, thật không ai dám nghĩ rằng đó là nghệ sỹ Hải Bằng làm việc miệt mài quên tuổi tác, ý chí lướt tràn cả trên sức lực của mình.
Trước tiên anh là một nhà thơ. Tuổi trẻ đầy khát vọng của anh gặp ngọn lửa kháng chiến trường kỳ. Anh hòa nhập ngay vào đoàn Vệ quốc quân, thuộc trung đoàn 101 mang tên trung đoàn Trần Cao Vân, tên của một nhà chí sỹ yêu nước thời Cần Vương bị Tây chém đầu một lúc với Thái Phiên. Hải Bằng cùng đồng đội vào từng chiến dịch. Anh viết báo, làm thơ. Bài thơ "Người nữ cứu thương" của anh đã nổi tiếng một thời. Sang thời chống Mỹ, bài "Cồn cỏ" được tặng giải cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ. Càng có tuổi anh càng say thơ, luôn luôn tìm tòi phát hiện. Hầu như không ngày nào anh không có những câu thơ mới, lấp lánh. Chỉ xin lấy một ví dụ thôi, riêng về đề tài mưa ở Huế, Hải Bằng đã làm đúng một trăm bài thơ tứ tuyệt. Mỗi bài một cảnh sắc, một tâm trạng, một thi hứng riêng. Anh tập hợp lại, in riêng thành tập thơ "Mưa Huế". Không tìm tòi say đắm không thể sáng tạo như thế được.
Đặc biệt anh có tài ứng tác. Tôi nhớ lần ấy Hội nhà văn tổ chức cho anh em văn nghệ sỹ miền Trung đi thực tế. Bữa ở Đà Nẵng, anh Nguyễn Chí Trung cầm con cá mú trên tay, lấy ngay cá mú làm đề tài, thách Hải Bằng làm thơ. Chỉ trong tích tắc, mắt Hải Bằng đang âm u bỗng sáng bừng lên, tôi biết anh đã ứng tác được bài thơ tức thì. Ngay trong câu đầu, cách chơi chữ của anh đã làm tất cả anh em trong đoàn cười sảng khoái:
"Cá mú hay là cú má em"...
Thơ Hải Bằng tôi thích mảng thơ tâm trạng của anh. Phùng Quán có làm tặng Hải Bằng một bài thơ, bài "Chim biển". Có thể nói một bài thơ rất Hải Bằng. Hai câu Hải Bằng rất tâm đắc, tả con chim biển trong cảnh bão tố, nó nấp tránh gió trong bụi xương rồng trên cát:
"Thò ra e gió cuốn
Thụt vào ngại gai đâm".
Đụng vào tâm trạng, thơ Hải Bằng bao giờ cũng bâng khuâng, bâng khuâng của một nỗi niềm day dứt, thấm đượm trong đó một cái gì xót xa, nhưng vẫn găm chặt, nén chịu.
Anh viết:
"Theo cô Tấm đi hội làng giục giã
Bắt được chiếc hài mà chẳng dám cầm tay"...
Câu thơ như xuất thần. Không ồn ào mà thấm đậm. Giọng không lẫn vào đâu được. Ở một bài khác, anh cũng viết:
"Con chim tha rác trên cành phượng
Xây tổ hay là bỏ tổ đi?”
Gần đây, hiểu anh, nên đọc thơ là thấy Hải Bằng ngay lập tức. Hải Bằng thích câu cá. Có một thời cả năm trời Hải Bằng kiếm sống bằng nghề câu cá ở Quảng Bình, bây giờ đi đâu, trong túi anh cũng có bộ đồ câu. Anh bảo: "Cái thú nhất của câu cá là kiếm được cá, song quan trọng lại ở chỗ có thời gian để suy nghĩ". Có những câu thơ đắng nghét của anh bắt rễ từ mặt nước ao hồ ấy:
"Con muỗi vo ve từ mặt nước ao nhà
Không dám nhận mình là bọ gậy".
Nét rất đáng yêu trong thơ Hải Bằng là sự hóm hỉnh, tinh tế. Bao giờ anh cũng tìm được cái để cười cho cuộc sống thường ngày không mất đi vẻ hồn nhiên.
Đây là anh làm thơ tự trào, khi răng đã gẫy hết, đến bệnh viện lắp bộ răng giả:
"Nụ cười tươi nói răng nhà nước
Con mắt âm thầm lệ cá nhân”.
Sau gương mắt lặng lẽ, âm thầm của anh là một Hải Bằng sôi sục, lúc nào cũng như có lửa cháy trong tim. Phải chăng vì vậy mà anh rất dễ xúc động, và tâm hồn thơ nhạy cảm. Do đó nguồn thơ của anh ngày càng chảy xiết. Trong vòng năm năm nay, Hải Bằng cho in liên tục bốn tập thơ: "Hát về ngọn lửa", "Trăng đợi trước thềm", "Mưa Huế", "Thơ tình Hải Bằng". Đó là thơ đã trình làng. Số thơ và trường ca còn nằm trong hòm lưu trữ của anh nếu được in hết, phải được cả chục tập nữa.
Phải được chứng kiến Hải Bằng trình diễn thơ trên diễn đàn và đọc thơ cho quần chúng nghe mới thấy hết chất lửa trong trái tim nhà thơ ngùn ngụt đến như thế nào.
Anh lấy ngay hồn thơ của mình làm tuyên ngôn:
"Rồi đây tất cả là thi sỹ
Nhìn lại tay mình chỉ có thơ”.
Hải Bằng không chỉ làm thơ. Bên cạnh con mắt nghệ sỹ tinh tường, anh có đôi bàn tay tài hoa. Một Hải Bằng tạo hình bằng rễ cây và tranh vân gỗ của anh cũng nổi tiếng không kém gì Hải Bằng nhà thơ.
Một đống rễ cây cong queo, sần sùi, với người khác chỉ được một việc ấn vào bếp nhóm lửa, còn với Hải Bằng, anh cầm từng rễ cây lên, đặt nhìn nghiêng, đặt nhìn dọc, ngắm ngắm, nghía nghía, cắt đầu rễ này, chắp mẩu rễ kia, chỉ một chốc lát, đống rễ cây vô dụng ấy biến thành "con chó sủa trăng", "gấu tương tư", “vũ điệu của bầy cò"... Phải nói đúng rằng Hải Bằng đã phù phép thổi tâm hồn nghệ sỹ của mình vào những vật vô tri làm cho nó sinh động hẳn lên, hòa nhập ngay vào cuộc đời. Nhìn lên tường nhà anh, thấy cả một vườn bách thú phong phú và đa dạng. Con nào cũng có sức sống riêng của mình. Hải Bằng đóng hộp, đóng chuồng gửi vườn thú của ông sang Pa-ri được bà con Việt Kiều bên ấy hoan nghênh và đón tiếp nồng nhiệt.
Hai bàn tay anh đặt vỏ cây lên nền gỗ, lập tức ta có ngay một tấm phù điêu. Phù điêu văn nhân của anh, không cần giới thiệu một lời, khách nhận ngay ra, đó là phù điêu nhà thơ Xuân Hoàng, nhà văn Nguyễn Tuân, nhạc sỹ Văn Cao... Hải Bằng tặng phù điêu cho chính tác giả. Đến sành sỏi như Nguyễn Tuân cũng phải giật mình mến mộ một tài năng tạo hình. Nguyễn đặt nó nơi trang trọng trong nhà làm kỷ niệm. Sâu lắng nhất có lẽ là phù điêu thiếu nữ Huế, mái tóc đen dài tha thướt, áo dài trắng tinh khôi, một chiếc nón trắng e lệ, đó chính là mảnh gỗ anh tình cờ nhặt được và đặt đúng vị trí cho nó. Khi chúng tôi đến thăm, gặp "thiếu nữ Huế", ai nấy đều bàng hoàng, cùng thốt lên câu thơ của Hàn Mặc Tử:
“Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Riêng tranh vân gỗ của anh, khách nước ngoài rất thích. Đó là những tấm gỗ có vân tự nhiên, nhưng chỉ có con mắt của anh mới thấy được. Đưa về, anh cho đánh bóng và quét dầu bóng lên, thế là một bức tranh "như tranh sơn mài" được mọi người công nhận. Tính trừu tượng của những bức tranh này, làm cho tấm gỗ trở nên có giá.
Về hội họa, chúng tôi tưởng Hải Bằng chỉ có tài vẽ truyền thần. Đặc biệt là bạn bè cũ, từ thời chín năm, không còn một tấm ảnh trong tay, Hải Bằng vẽ từ trong trí nhớ, được bạn bè công nhận là rất giống, như trường hợp Hồ Vi chẳng hạn. Vẽ xong, Hải Bằng đưa bức vẽ cho ông Nguyễn Khắc Thứ, người bạn cùng thời thuở chín năm, Nguyễn Khắc Thứ thảng thốt kêu lên "Hồ Vi!". Có được một hình ảnh của Hồ Vi lúc này thật đáng quý biết chừng nào. Rất cám ơn Hải Bằng.
Song, rất lạ, trong vòng hai năm nay, Hải Bằng xuất hiện sừng sững giữa Huế như một họa sỹ vẽ tranh phong cảnh có tài, dù anh mới chỉ vẽ thuốc nước, nhưng tranh thuốc nước của anh rất giống tranh sơn dầu.
Cách đây một tháng, đến nhà anh, tôi đếm được 16 bức tranh lồng kính, còn 15 bức trần không có kính để lồng. Nay đến thăm anh, Hải Bằng khoe thêm 6 bức mới vẽ. Phải khẳng định rằng các bức sau càng đẹp hơn các bức trước. "Bờ lau”, "Ánh sáng phía bên kia", "Bến vắng", "Đường ra sông" đang là những bức được bạn bè khen là đẹp nhất, rất xứng đáng với hội họa. Đúng với tính cách trầm lắng của anh, gam màu xanh xám của Hải Bằng là thành công nhất, màu sắc không có góc cạnh, không chói lòa kia, xanh xám thôi, nhưng thăm thẳm như hồn anh.
Thơ, tạo hình, và cả những bức tranh của Hải Bằng xuất hiện, đột ngột làm chúng tôi bất ngờ; Không hiểu anh làm việc vào lúc nào mà các tác phẩm cứ ra đời, trình làng đều đặn đến thế.
Nói đến Hải Bằng, anh em chúng tôi thường nhắc nhau: "Phải đắm say, sáng tạo, sáng tạo không mệt mỏi như Hải Bằng".
Sức làm việc của anh thật xứng đáng với tấm lòng trân trọng của bạn bè.
10-92
Y.C
(TCSH53/01&2-1993)
NGỌC BÍCH
(Đọc "Thơ Ngô Kha"*)
Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).
PHẠM TRƯỜNG THI
Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.
HỒ HUY SƠN
Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.
PHẠM PHÚ PHONG
Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.
HỒ THẾ HÀ
Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.
LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
• Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.
PHẠM XUÂN DŨNG
Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.
TRẦN THÙY MAI
Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!
NGUYỄN QUANG THIỀU
Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.
VŨ VĂN
Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.
ĐỖ QUYÊN
1.
Du Tử Lê thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)
LƯU KHÁNH THƠ
Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.
PHẠM PHÚ PHONG
Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.