HỒ THẾ HÀ
Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.
Gần 10 năm sau mới có Trăng đợi trước thềm (1988), rồi thơ tình Hải Bằng (1989) và gần đây nhất là Mưa Huế(1991). Quả là con đường nghệ thuật của anh không dễ dàng và thuận lợi. Những gì bạn đọc biết và hiểu về anh hãy còn ít ỏi so với kết quả anh có: Hàng nghìn bài thơ, hằng trăm bức tranh và bức tượng bằng rễ cây. Điều ấy cũng có thể gọi là thiệt thòi đối với Hải Bằng, dẫu biết rằng sức mạnh nghệ thuật có quy luật riêng của nó, không phải ở số lượng mà là ở chất lượng, ở hồn thơ, ở nỗi đau nhân tình thế thái...
Có thể nhận xét một cách khái quát hành trình thơ của Hải Bằng là hành trình đi từ cái riêng đến cái chung và về lại cái riêng; từ ngợi ca hào hùng về với trữ tình đời tư và chiêm nghiệm. Đấy cũng là hành trình chung của nhiều nhà thơ Việt Nam, nhưng ở Hải Bằng lại mang những nét riêng gắn với những thăng trầm của cuộc sống và những vui buồn, khuyết lõm của đời anh nên dễ được người đọc yêu mến, cảm thông.
Anh đi nhiều và nhạy bén trong việc quan sát và nắm bắt hiện thực khách quan. Mọi sự vật và hiện tượng đối với anh đều có chất thơ và có ma lực truyền vào anh sự rung cảm tinh tế để trở thành tiếng thơ sâu nặng. Hiện nay, anh vẫn miệt mài lao động nghệ thuật. Có lẽ, khi anh ý thức về tuổi đời và sức khỏe của mình thì việc sáng tạo đối với anh như một nhu cầu bức thiết, như một cuộc chạy đua với thời gian - và lạ thay - nó như một phép dưỡng sinh, giúp anh quên đi bệnh tật thiếu thốn để sáng tác và hy vọng, để đọc thơ tình trước khán giả sôi nổi như một tráng niên.
Nghĩ về Hải Bằng, tôi cứ nghĩ về điều đó, và tự nhiên, tôi yêu quí anh - một tấm gương lao động nghệ thuật miệt mài.
Mưa Huế ra mắt bạn đọc trong dịp nhà thơ tròn 60 tuổi với lời cảm ơn trân trọng ở đầu sách của tác giả đối với bằng hữu và bạn đọc gần xa đã giúp đỡ anh về vật chất lẫn tinh thần, càng làm cho mọi người xúc động - qua đó - mới biết phần thưởng mà Hải Bằng có được thật là quí giá.
Chọn mưa làm đối tượng để miêu tả, hẳn Hải Bằng đã tâm đắc và gắn bó sâu nặng với nó như thế nào, nhưng ở đây là mưa Huế thì ý nghĩa lại khác. Mưa ở đây không còn là khái niệm mà đã thành mưa cụ thể? Mưa Huế - mưa quê hương - mưa của những vui buồn kỷ niệm ám ảnh suốt đời anh.
100 bài thơ mưa được tái hiện bằng lối thơ 4 câu nhưng không gò bó, gượng ép, không lặp lại mình, trái lại, mỗi bài thơ là mỗi nỗi niềm, mỗi suy tư, chiêm nghiệm. Điều ấy, đủ biết Hải Bằng làm chủ đề tài và làm chủ mình đến mức nào.
Mưa trong thơ Hải Bằng có nhiều cung bậc và tâm trạng. Trước hết, nó gắn bó với suốt tuổi ấu thơ, với Huế - nơi anh cất tiếng khóc chào đời qua lời ru của mẹ
"Thuở sinh con mẹ mong trời tạnh mưa
Nhưng trời chẳng chiều theo ý mẹ
Tờ giấy khai sinh có tên con tên Huế
Ngày lọt lòng con khóc giữa mùa mưa"
Và vì vậy, chẳng thể nào khác được nếu hiểu mưa của anh mà thiếu lời ru của mẹ, thiếu hình ảnh quê hương: Mưa trong lòng rơi giọt thương giọt nhớ. Giọt cất dành cho nơi mẹ sinh ta. Suốt cuộc đời mình, anh đã ấp ủ và cất giữ mưa như hành lý để yêu thương và khát vọng.
Mưa là nhân chứng, là bài học làm người của anh. Có mưa, đời biết buồn vui, hờn giận, và có cuộc sống xanh tươi:
Mưa tuổi thơ hồn nhiên, vô tư lự:
"Tôi đã tắm tuổi thơ vào mùa mưa
Con đò giấy trôi sâu vào tiếng khóc”
Mưa tuổi vào yêu với bao ước ao, rung cảm lặng thầm:
"Mùa thu về dáng em đi thầm lặng
Trong lặng thầm ánh lửa cháy lan xa"
Và rốt cuộc, chỉ có mưa được đi cùng dáng nhỏ sang bến bờ xa cách để riêng anh thành nỗi nhớ phía bên ni.
Đối lập với cảm xúc tinh nhạy, mãnh liệt của tuổi biết yêu của Hải Bằng là một tâm hồn nhút nhát, vụng về, do vậy, từ tình yêu thầm lặng anh chỉ còn biết mơ mộng, tưởng tượng. Nó như 1 âm bản ước mơ của anh.
"Gặp em trong mắt thầm xao động
Tóc chảy xuống vai mềm ai biết đó là mưa”
Từ mơ mộng, tưởng tượng anh không ngừng đẩy nó đến tận cùng của sự lãng mạn, và cũng chỉ có mưa làm nhân chứng mà thôi.
"Em là ngoại ô của tâm hồn sâu lắng
Sau cơn mưa, nơi đó có trăng về"
Tình yêu tuổi thơ như thế lại đẹp chứ sao. Nhưng đến tuổi trưởng thành mà không có tình yêu thì đó là nỗi đau khó bù đắp, Hải Bằng lại rơi vào trường hợp ấy. Không phải anh ngu ngơ, nhút nhát mãi đâu. Chính cái lý do anh nói ra sau đây là lời tự bạch pha chút xa xót nhưng nó chân thật, mãnh liệt làm sao.
"Tôi không có mối tình đầu nơi cắt rốn chôn nhau
Vì ngày ra đi tuổi còn bé quá
Thuở chia tay, Huế vào mùa tầm tã
Giờ gặp em rồi tôi bỗng hóa cánh thơ mưa"
Hình như cứ mỗi biến động trong đời anh thì cơn mưa lại đến, mưa như duyên nợ để trở thành ám ảnh.
Yêu mà không được yêu, thường tình, con người tự thỏa mãn mình bằng những giấc mơ hoặc có những cảm giác đê mê, đau buồn như trẻ nhỏ. Quả thật, Hải Bằng đã lọc được cảm giác ấy một cách mãnh liệt tuy ở tuổi muộn mằn. Anh được yêu, được hạnh phúc nhưng rồi bỗng chốc tan biến, mỏng manh để mãi mãi, bài hát ấy, tình yêu ấy, giọt mưa ấy thành dư âm không tắt.
"Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi
Lời ca ấy đã trôi đi những điều mơ ước"
Và dẫu biết rằng niềm vui không thể có lần thứ 2, còn nỗi buồn thì dai dẳng, anh vẫn đón từng cơn mưa mang khúc nhạc của riêng mình. Thế mới biết Hải Bằng khát yêu và độ lượng.
Biết mình, hiểu người, không oán trách bởi dù sao Giọt mưa thu vẫn còn mãi dư âm. Dư âm ấy đủ để anh hiểu hết sức mạnh của tình yêu và không ngừng nuôi hy vọng, không ngừng khám phá và giao cảm.
"Hạt mưa dồn vào phía chiếc nón nghiêng
Giữa khuôn mặt ẩn mưa có chấm tròn hy vọng
Trong cơn mưa cái gì cũng bé bỏng
Chỉ còn em và đôi mắt mênh mông"
Có thể nói rằng mưa cũng là anh. Chiếc cầu mưa trong thơ Hải Bằng có lúc hữu hình, có lúc vô hình; có khi thực, có khi mộng nhưng nó đủ sức đưa tâm hồn anh đến mọi bến bờ. Có lúc anh quay về với quê hương tuổi thơ bên mẹ, có lúc anh chan hòa cùng thiên nhiên để thì thào cùng chim muông, cỏ cây hoa trái... Và tất cả những hiện thực ấy đi vào thơ anh đều trở thành tiếng nói đồng cảm, thành sự trở trăn về tình yêu và sự sống. Và không phải một lần, mỗi khi cảm thấy bất lực, anh trở lại với nó để tiếp tục suy tư, chiêm nghiệm. Vì vậy, mưa trong thơ Hải Bằng đa dạng, biến tấu qua nhiều màu sắc, âm thanh, hình ảnh.
"Đi tận đâu cũng trở về bên mẹ để Chở câu hò về giao mùa hạ cho em”. Và cứ thế, anh hiểu mình, anh hiểu đời.
"Tóc trắng đầu mới nhìn rõ mẹ hơn
Trăm bận ướt mới ngấm mùa mưa xứ sở
Đừng hỏi tại sao trời còn nức nở
Vì mẹ thường gạt nước mắt nuôi ta"
Hoặc:
"Ai đã liệm quan tài ngày đưa mẹ ra đi
Giờ bước trong mưa mới hiểu thêm đời mẹ
Nếu không có mùa mưa xứ Huế
Thì mai sau con chẳng biết nắng là gì"
Có thể nói rằng mỗi bài thơ mưa là mỗi hành động nhận thức. Rõ ràng nơi anh ra đi và cái đích phải là nơi anh trở lại nhưng với hành trang tâm hồn giàu có, phong phú hơn xưa. Từ chiếc cầu mưa mà Hải Bằng vẽ lên ta thấy cả hai bờ: Buồn đau và hạnh phúc. Giọt mưa hay giọt nước mắt? Giọt mưa hay giọt nắng? Có cả hai để làm thành bức tranh mưa kỳ lạ: buồn mà vẫn tươi màu nắng, buồn mà vẫn long lanh chấm tròn hy vọng. Đó là mưa Huế của Hải Bằng.
Như lúc đầu tôi đã nói: 100 bài thơ, cùng một thể loại, cùng một đối tượng mà thể hiện được biết bao tâm trạng, quả Hải Bằng là người thật sự nếm trải và giàu cảm xúc. Nhưng như thế không phải trong Mưa Huế không có nhiều bài chưa chín, chưa đều tay cần phải gọt giũa kỹ hơn và lẽ ra không nên đưa vội vào tập này nhưng thiết nghĩ, góp được cho Huế, cho đời bức tranh mưa mang hồn cuộc sống như vậy còn trách và đòi hỏi gì hơn nữa ở Hải Bằng - khi anh đã nhận ra điều ấy.
Tôi đã tham lam nói nhiều, trong khi lẽ ra chỉ thơ mưa Hải Bằng nói thôi là đủ. Nhưng tôi cứ nghĩ rằng những gì anh gửi gắm trong thơ chính là nỗi đau buồn, trăn trở của anh, không nói không đành, sợ anh bảo là không thông cảm. Bao giờ cũng thế; Nỗi buồn thường muốn được sẻ chia. Vì lẽ đó, tôi xin dừng những lời lạm bàn ở đây để cùng lắng nghe tiếng mưa rơi trong từng giọt buồn của thi sĩ Hải Bằng.
Huế, tháng 1 - 1992
H.T.H
(TCSH48/03&4-1992)
----------------
(1) Đọc tập thơ Mưa Huế - Hội Văn học nghệ thuật TT-Huế, 1991.
Trong sự nghiệp nghiên cứu văn học của PGS.TS. Võ Văn Nhơn, văn chương phương Nam giữ vị trí trung tâm và nổi bật.
“Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng”1. Hành trình sáng tác của Han Kang là sự kết nối những câu hỏi và là “suy ngẫm về những câu hỏi”.
Hồ Minh Tâm sinh năm 1966 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Đà Nẵng năm 1990, Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998; làm việc trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, tư vấn thiết kế, quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Trong một bài viết mấy năm trước, tôi dẫn câu “số phận chứa một phần lịch sử” và tưởng rằng sự đúc kết rất đáng suy ngẫm này là của nhà văn - đạo diễn Đặng Nhật Minh. Hóa ra tôi đã nhầm.
Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.
Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.
Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?
Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...
Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.
Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên).
(Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).
Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.
Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.
(Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)
YẾN THANH
Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.
Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.
VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)
Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.
HỒ THẾ HÀ
Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.
PHONG LÊ
Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.