Bà Lê Hiền Đức - Ảnh: internet
Đó là một ngày tháng 05 năm 2006, khi đang làm hướng dẫn viên tại biệt thự Hằng Nga (Crazy hause) Đà Lạt, tôi tình cờ được gặp bà Lê Hiền Đức (tên do Bác Hồ đặt cho). Bà là người dịch mật mã riêng cho Bác Hồ, tên thật là Phạm Thị Dung Mỹ, sinh ngày 12 tháng 12 năm 1932. Là con út của tri phủ huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Một nhà giáo hưu trí, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, là một trong hai người đoạt Giải thưởng Liêm chính năm 2007 do Tổ chức Minh bạch Quốc tế trao tặng. Chúng tôi, thế hệ 8x may mắn được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước hòa bình nhưng cũng vì thế mà chúng tôi không thể hiểu hết được một thời oanh liệt của thế hệ cha anh và nhất là tấm gương đạo đức sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng tôi chỉ có thể hiểu biết thông qua những bài học lịch sử, những mẩu chuyện kể về cuộc đời cống hiến cho dân tộc và tấm gương đạo đức sáng ngời của Người rất cụ thể, sinh động và gần gũi… Nhưng phải thú thực chỉ sau khi được gặp gỡ và tiếp xúc với bà Lê Hiền Đức, tôi như thực sự đang được nhìn thấy nghe thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh sống và làm việc với con người bằng xương, bằng thịt. Người đã ra đi nhưng đạo đức và tác phong của người còn sống mãi trong tâm hồn người Việt và Người đang hiển hiện đây ngay trước mặt tôi thông qua người phụ nữ dịch mật mã, thư ký riêng của Người. Một phụ nữ cao tuổi thấp nhỏ nhưng rắn rỏi, nhanh nhẹn với đôi mắt âu yếm nhưng sáng ngời, một phong cách rất Hồ Chí Minh, bà nói “Nhờ được làm việc cho Bác Hồ trong một thời gian dài nên bây giờ bà vẫn giữ được phong cách làm việc và cách sống của Người”. Quả đúng như vậy, con người ấy toát lên một vẻ đẹp thanh khiết, dung dị và dịu dàng như một đóa sen hồng. Ấn tượng đầu tiên đối với tôi là đức tính tiết kiệm, tiết kiệm không phải vì thiếu thốn mà tiết kiệm vì một giá trị cao cả mà cho mãi đến khi sắp chia tay với bà tôi mới hiểu hết. Hôm ấy là tối thứ bảy, tôi có nhã ý mời bà đi dạo một đoạn trên khu phố đi bộ để tôi có cơ hội tìm hiểu nhiều hơn về những giá trị vĩnh hằng của một thời đã qua đi mà những người như bà là chứng nhân. Hai bà cháu cùng nhau bước chầm chậm, say mê ngắm nhìn đoàn người thanh thản đi lại trong sương mờ phố núi và ngào ngạt hương sắc muôn hoa. Bà mải miết nói về thời oanh liệt và những con người bất tử, đó là bao bạn bè cùng trang lứa với bà nhưng tuyệt nhiên không thấy bà tự nói về mình. Trong số những người ấy, bà nói nhiều về TS. KTS. Đặng Thị Việt Nga con gái của cố Chủ tịch nước Trường Chinh (Tên thật là Đặng Xuân Khu), hiện là chủ nhân của biệt thự Hằng Nga. Mải miết đi, mải miết nói chuyện cho đến khi giật mình nhớ ra rằng đã đến lúc phải quay trở về thì phát hiện chúng tôi đã đi ra khỏi trung tâm thành phố và hai chân mỏi nhừ. Tôi định gọi xe thồ để trở về thì bà ngăn lại một cách dịu dàng nhưng cương quyết: “Không cần đâu! Bà vẫn đi bộ rất tốt. Với cả đường Đà Lạt về khuya đẹp lắm, đi xe ôm thì uổng quá. Với lại biết bao giờ bà được thăm lại Đà Lạt”. Sáng hôm sau, tôi cùng một nhân viên tạp vụ lên phòng bà thật sớm (bà chọn căn phòng nhỏ nhất và đơn giản nhất trong biệt thự) thì thấy bà đã dậy từ bao giờ và đang ngồi trước đèn chăm chú đọc sách. Cô tạp vụ ngạc nhiên vì thấy tất cả mọi thứ đã ngăn nắp gọn gàng như trước lúc bà tới. “Bà ơi! Những việc này là của cháu, lần sau xin bà để cháu làm”. Bà nở một nụ cười thật hiền với cô tạp vụ: “Những việc như thế này bà vẫn có thể làm được và bà thích tự làm những việc của mình”. Mặc dù tuổi đã “thất thập cổ lai hi” nhưng không ngày nào bà lại không đọc sách và tìm hiểu về internet. Tay cầm cuốn sách Tự học Tiếng Anh bà nói: “Bác Hồ dạy: Học không bao giờ là muộn”… Trong xu thế ngày nay người như bà cũng cần phải học tập rất nhiều, nhất là vi tính và Anh Văn. Người như các cháu lại càng phải học nhiều hơn. Bà nghĩ thế, không biết các cháu thì sao”? Vẫn không quên nở một nụ cười hiền dịu và một ánh mắt mến thương, bà nói tiếp: “Đà Lạt thật trong lành, con người nơi đây nhẹ nhàng, lịch lãm và thân thiện. Bà thấy sau chuyến đi này bà cần phải đối xử thân thiện, nhẹ nhàng hơn với mọi người và đấu tranh quyết liệt hơn để chống lại cái ác”. Trong suốt thời gian bà ở biệt thự Hằng Nga, tôi được nghe biết bao câu chuyện cảm động về những con người đã trở thành tinh hoa của dân tộc. Đặc biệt là vị cha già kính yêu Hồ Chí Minh nhưng hoàn toàn không nghe bà tự nói về mình trong suốt quá trình “làm giao liên, làm mật mã viên cho ngành công an, rồi hoạt động tình báo cho Sở Liêm phóng Hà Nội. Năm 1949, khi mới 17 tuổi bà đã được điều lên chiến khu Việt Bắc làm việc tại Nha Công an Trung Ương. Nhiệm vụ của bà là dịch các tài liệu bằng mật mã từ các nơi gửi về và làm liên lạc, đưa công văn, giấy tờ sang Văn phòng Chủ tịch”. Sáng nay, như thường lệ tôi lại lên phòng bà thật sớm. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là bà không ngồi đọc sách như mọi khi mà đang cần mẫn gấp thật ngay ngắn những bộ quần áo đủ mọi kích cỡ, màu sắc dành cho cả nam và nữ. Bên cạnh là lỉnh kỉnh bao nhiêu sách vở và quà bánh, tôi hỏi: “Bà làm gì thế này?” Vẫn say sưa với những công việc của mình, bà trả lời tôi: “Sáng mai bà về Hà Nội rồi, chiều nay bà đến thăm các cháu ở làng trẻ SOS Đà Lạt, cháu có đi với bà không?” “Dạ có! Cháu đi với bà nhưng tiền đâu bà mua nhiều thứ vậy?” Vẫn nụ cười trên môi, bà nói chậm rãi: “Bà quyết định về Hà Nội trước thời hạn ba ngày nên tiền phòng dư ra sáu trăm ngàn cộng với tiền bà tiết kiệm được bằng việc không đi xe ôm và xe taxi từ hôm tới Đà Lạt đến giờ”. Cho tới bây giờ tôi mới thực sự hiểu tại sao lúc chân tôi đã mỏi nhừ và bà chắc chắn còn mỏi mệt hơn gấp mười lần tôi, nhưng bà vẫn quyết định đi bộ trên những con đường Đà Lạt đèo dốc quanh co. Hôm ấy đến làng trẻ SOS bà đã dịu dàng phát quà, âu yếm căn dặn từng em, ôm chúng vào lòng mà khóc. Tôi ngây ngô đứng nhìn người phụ nữ nhỏ nhắn với mái tóc bạc trắng và đôi mắt dịu dàng trước các em nhỏ tàn tật ngây thơ. Tôi không nói gì, không làm gì không muốn khóc nhưng sao nước mắt cứ ứa ra… Thế là bà đã lên tàu về Hà Nội trước kế hoạch ba ngày. Chỉ vẻn vẹn chưa đầy năm ngày được tiếp xúc và nói chuyện với bà Hiền Đức nhưng tôi đã học được nhiều bài học rất đỗi bình thường, gần gũi nhưng quý giá biết bao. Đó là đức tính tiết kiệm, giản dị ngăn nắp tự lập, không ngừng học tập và tự học tập, điềm tĩnh dịu dàng và thương yêu con người... Thông qua con người nhỏ nhắn, giản dị này tôi như đã được gặp gỡ để cảm nhận sâu sắc hơn, toàn diện hơn, trực tiếp hơn về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. N.T.T (264/2-11) |
Rất nhiều hoa, rất nhiều nụ cười đã hiện diện một cách cởi mở và đầm ấm trong buổi chiều ngày 18.7.2008 tại Trung tâm Du lịch và Dịch vụ Festival - Huế, nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 25 năm Tạp chí Sông Hương phát hành số báo đầu tiên (1983-2008).
HỒ THẾ HÀĐến nay, Tạp chí Sông Hương đã tròn một phần tư thế kỷ (1983-2008) kể từ số đầu tiên được ra mắt bạn đọc. Hai mươi lăm năm đủ để vui buồn ôn lại những chặng thác ghềnh và phẳng lặng của một dòng sông từ nguồn ra biển.
ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.
TRẦN THÙY MAIThuở trước, mỗi đêm cuối năm, anh Hải Bằng bao giờ cũng đến thăm trụ sở Hội Văn nghệ, rồi túc tắc ngự trên chiếc xe babeta màu đỏ, ghé thăm nhà bạn bè thân hữu đó đây trước khi quay về để kịp đón giao thừa.
NGUYỄN QUANG HÀCuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cả nước xôn xao về vụ án Trần Dụ Châu.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một cuộc vui gần đây, nhân nhắc đến việc bình chọn các nhân vật, sự kiện nổi bật trong năm trên báo chí, có ý kiến phong cho nhà văn Hồng Nhu là người đạt nhiều cái “nhất” nhất trong làng văn ở Huế.
TRẦN THỊ TRƯỜNG - Chúng ta lại thắng rồi. Thỉnh thoảng lão lại reo lên như thế khi bất chợt gặp một người mà lão coi là bạn. Lão nói câu ấy cả khi lão đang thoi thóp trên giường bệnh, miệng méo xệch lão nói một cách khó khăn nhưng vừa nói lão vừa cười khiến cho người ta yên tâm là lão bắt đầu sống trở lại, cái chết còn lâu mới quật được lão.
PHẠM QUANG TRUNGAnh Cao Xuân Hạo kính mến!Trước tiên, xin thú nhận, tôi là người mê say tên tuổi anh đã từ lâu. Tuổi trẻ và sau đó là những năm tháng trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn chương đã đưa tôi đến những trang dịch văn xuôi Nga – Xô viết đầy sức cuốn hút của anh, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Chiến tranh và hòa bình, Truyện ngắn Gorki, Con đường đau khổ, Tội ác và trừng phạt…
VINH HUỲNHLTS: Có bạn đọc gửi thư đến Toà soạn chúng tôi đề nghị nếu chọn topten sự kiện nổi bật trong làng báo chí năm 2001 thì không nên bỏ qua “hội chứng” đánh vào các trường đại học, trong đó có Đại học Nghệ thuật Huế và trường Viết văn Nguyễn Du.
NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.
TRẦN HOÀNLTS: Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 12 năm 2001 đã diễn ra cuộc tập huấn - hội thảo báo chí văn nghệ địa phương tại thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Trần Hòan, Phó Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Phó Chủ tịch UBTQ.LH các Hội V.H.N.T Việt Nam đã đọc báo cáo đề dẫn hội nghị. Sông Hương xin trích đăng một phần trong báo cáo đó (đầu đề do chúng tôi đặt).
NGUYỄN KHOA ĐIỀM(TBT: 1983 - 1986)Bây giờ nhìn lại những số Sông Hương đầu tiên (số 1 ra mắt tháng 6-1983) không khỏi cảm thấy tờ tạp chí như một… cô gái quê, giản dị, khiêm nhường, có vẻ… tồi tội. Giấy đen. Bìa mỏng. Bát chữ typo chỗ đậm chỗ nhạt. Sông Hương làm sang cho in ảnh tác giả, khốn nỗi, ảnh loè nhoè, không rõ mặt. Giá bao cấp 7 đồng/số, vẫn bị chê đắt. Được cái lượng bản in ngay số đầu là 4.000 bản. Trông khí sắc cuốn tạp chí vẫn chưa xa cái thời tranh đấu chống Mỹ, in sách báo trong gác trọ sinh viên.
TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(TBT: 1991)Tôi có may mắn được làm Phó Tổng biên tập nhiều năm cho hai “đời” Tổng biên tập nổi tiếng là Nguyễn Khoa Điềm và Tô Nhuận Vỹ, nhưng đến “phiên” mình được gánh vác trọng trách thì chỉ đảm đương được một thời gian ngắn. Đã đành do tài hèn sức mọn, nhưng cũng vì đó là giai đoạn khó khăn sau “Đổi Mới”, chúng ta đang phải tìm đường, nhiều quan niệm - nhất là về văn học nghệ thuật chưa dễ được nhất trí…
HỒNG NHU(TBT: 1992 - 1997)Thời gian như bóng câu qua cửa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ, tờ tạp chí Sông Hương có mặt cùng bạn đọc trong và ngoài nước.
NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.
MAI VĂN HOANSáng 8 - 5 - 2008, ghé quán 26 Lê Lợi (trụ sở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế) ngồi uống cà phê với hai nhà thơ Kiều Trung Phương và Ngàn Thương, tôi vô cùng sửng sốt khi Ngàn Thương cho biết người suốt đời đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử là anh Phạm Xuân Tuyển đã mất cách đây gần 7 tháng tại Phan Thiết.
I.Con người ấy từng mang tên Nguyễn Sinh Cung, và tên chữ Nguyễn Tất Thành, trước khi đến với tên Nguyễn Ái Quốc, đã trải một tuổi thơ vất vả vào những năm kết thúc thế kỉ XIX, để bước vào thế kỉ XX với một niềm khao khát lớn: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy...” (1)
Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác.
Chiều 17.11 vừa rồi, ở địa chỉ 26 Lê Lợi đã diễn ra cuộc tọa đàm giữa đoàn nhà văn Trung Quốc với Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật, Phó Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ đã tháp tùng đoàn nhà văn bạn từ Hà Nội tới Huế.