Kỷ niệm Sông Hương, nhớ Hải Bằng

15:31 17/07/2008
TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.

Thơ anh tặng, đến hơn mười tập, tôi đặt ở dãy “ưu tiên” là dãy sách tặng của các tác giả đã mất, dễ nhìn dễ thấy nhất,  trong tủ sách phía trước bàn làm việc của tôi. Nên tôi thấy và chào anh từng buổi từng ngày. Đôi chim hạc bằng rễ cây đặt trên bàn thờ phụ cạnh bên bàn thờ ba mẹ tôi. Đôi chim hạc này anh tạo hình chưa thật điêu luyện nhưng tôi quý nó vì đó là một trong những tác phẩm rễ cây vào loại đầu tay của anh. Và con chó Jò bé xíu. Ngày con gái tôi bị tai nạn, sau khi phẫu thuật cấp cứu, cháu phải ở trong nhà kín mít cửa ngõ hơn năm trời chờ ngày đi chữa bệnh xa, không dám cho ai thấy bộ mặt dị dạng của mình. Đó thực sự là những ngày dằng dặc nỗi dày vò đau đớn của cháu. Bác Hải Bằng thương cháu, để dành cho một con chó đẹp nhất vừa ra đời trong lứa chó Nhật đẹp nhất của anh dịp đó, gọi Diệu Liên về bồng lên cho chị, với cầu mong cái nhí nhảnh, loăng quăng của con chó bé xíu, tròn lẳn gọn giữa bàn tay, sẽ làm dịu đi đôi chút nỗi dày vò đau đớn của cháu, nhất là một khi cháu phải xú rú ở nhà một mình. Con chó nhỏ và Diệu Linh quấn quýt với nhau suốt ngày và nụ cười cũng đã có lúc đến với “hai chị em”. Diệu Linh đã vui nghịch đặt tên cho nó là Jò-bái (dái bò!), gọi tắt là Jò. Từ đó, Jò trở thành một thành viên đặc biệt của gia đình tôi, biết sẻ chia nỗi buồn của chị và gia đình. Nhân nói chuyện tình cảm, không thể quên cái tình của anh với nhà anh Ân trại cá. Chúng tôi hay gọi là anh Ân-trại-cá vì Ân nguyên là Giám đốc xí nghiệp nuôi cá Cư chánh. Ngày anh đang ăn nên làm ra, đến cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã đến thăm động viên. Hôm đó cận Tết, khi Đại tướng đến phải chạy tìm anh khắp các nơi, mãi mới thấy anh đang cặm cụi ở ao cá mẹ sắp đẻ. Anh làm việc không có giờ giấc, ăn mặc tuềnh toàng, “bộ gió” như anh thợ đào đất thuê chứ không có chi là kỹ sư thuỷ sản thứ thiệt lâu năm, càng không có chi hơi hướng của một giám đốc của một cơ sở làm ăn có tiếng. Những ngày đó, anh em văn nghệ hay lên thăm và “đeo” anh lắm. Bởi trong xí nghiệp có không ít nơi “sơn thuỷ hữu tình”, những đêm trăng thì càng tuyệt vời hơn, cho những cuộc lai rai mà đồ mồi là cá mú cây nhà lá vườn và nụ cười chân chất luôn nở trên môi anh suốt cuộc thơ phú nhạc có lúc suốt sáng. Mỗi khi có khách Hà Nội, Sài Gòn, anh em còn kéo lên bắt anh “thay mặt Huế” tiếp đãi. Xí nghiệp cá và nhà Ân đã thành một địa chỉ “trong nhà” của Hội Văn nghệ. Nhưng từ khi anh gặp trắc trở trong làm ăn và anh mất sau lần bệnh trọng, thật đáng buồn, quá nhiều anh em vốn hay “đeo” anh đã “quên” mất địa chỉ nhà anh, hiếm khi có ai lên thăm, động viên chị Tiếp vợ anh và bốn cháu còn nhỏ. Hải Bằng vốn không uống rượu và không quen ăn nhậu, chỉ “phó hội thơ phú” cho vui bạn bè thôi. Nhưng, sau ngày anh Ân mất, ngay cả khi bệnh trọng đang hành hạ bản thân, anh vẫn đạp xe cà cọc cùng tôi hay lên thắp hương cho Ân và thăm chị cùng các cháu, xem có gì có thể góp một tay giúp đỡ. Hải Bằng sống rất có tình.
Và hai kỷ vật tôi kể sau cùng có liên hệ tới Sông Hương.
Ngày đó, chúng tôi muốn Sông Hương góp sức cho các hoạt động vì sự tiến bộ của nền văn học nghệ thuật nước nhà. Đó là khát vọng và thành tâm của chúng tôi. Nhưng rất ít người ủng hộ chúng tôi lúc ấy. Có giai đoạn Đảng Đoàn Hội Văn nghệ (tôi, anh Hồng Nhu và anh Hà Sâm) phải triền miên họp kiểm điểm trước cấp trên. Trong số ít người tới chia sẻ và động viên tôi đừng bi quan tuỵêt vọng, có Hải Bằng. Có lẽ kinh nghiệm cuộc đời bị ê ẩm chỉ vì một bức tranh phê phán cái xấu thời Nhân văn Giai phẩm khiến anh dễ thông cảm với những khó khăn đang thử thách chúng tôi hơn một số anh chị em khác. Anh vẽ bức tranh một cái hồ nước trong xanh, trên đó nở ra một bông sen trắng tinh khiết tặng tôi. Anh đặt tên bức tranh là Trong xanh. Tôi lặng lẽ nhận bức tranh đặt lên giá sách mà không nói lời cảm ơn. Tôi nghĩ, sự im lặng là lời cảm ơn chân thành nhất tôi gửi tới anh. Và rồi một hôm, anh lên nhà tôi, lấy trong túi xách ra một bức chữ cỡ khổ giấy A4 đã bọc nilông, loay hoay tìm nơi đặt lên, rồi kéo tôi tới nhìn
- Tặng Vỹ. Cứ phải Trong xanh nghe!
Anh chỉ nói như vậy. Con người vốn thảo nói chỉ nói như vậy rồi nắm chặt vai tôi trước lúc ra về, bảo là có việc cần đi ngay. Nhưng tôi biết, anh không muốn tôi hít hà nói lời cảm ơn.
Bức chữ chỉ có hai câu:

SÔNG HƯƠNG
Tặng Tô Nhuận Vỹ
Con cá lớn lên đã thuộc mọi nguồn sông
Vẫn không biết nơi nào có lưới.
Huế 1990
HẢI BẰNG

Thơ như vậy, tấm lòng anh như vậy nhưng trong một cuộc kiểm điểm, có vị đã “vận” thế nào mà chụp cho tôi thêm cái mũ không nghe lời cảnh báo của anh em . “Họ đã cảnh báo Vỹ hãy coi chừng bị kẻ địch lợi dụng mà không biết!”. Nghe chuyện, Hải Bằng lên hỏi tôi có thực vậy không “để tui đi chửi cho thằng cha một trận”. Tôi can anh đừng mất thì giờ vô ích. Và anh đã nghe theo.

T.N.V
(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Vậy mà, đã hơn 50 năm, từ những năm tháng trẻ tuổi… Huế, ngày ấy đã xa. Đã là kỷ niệm. Đã mất đi nhưng vẫn không ngừng sinh nở. Như những câu thơ, một thời…

  • Việt Đức - Võ Quê - Phạm Xuân Phụng - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Văn Vũ - Lê Phùng - Thùy Phương - Trần Băng Khuê

  • Trại sáng tác văn học với chủ đề “Vinh Xuân - Mùa biển gọi” do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND xã Vinh Xuân tổ chức, diễn ra trong thời gian từ ngày 3/5 đến ngày 10/5/2024, gồm 14 nhà văn, nhà thơ và 1 nhạc sĩ khách mời, đã cho ra đời 58 tác phẩm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    Ngày 18/9/1945, tại số 43 đường Trần Hưng Đạo, thành phố Thuận Hóa, Liên đoàn Văn hóa cứu quốc Thừa Thiên - tiền thân của Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế ngày nay được thành lập.

  • CHU SƠN

    Cuối năm 1963 tôi từ Hội An ra Huế để nhận lại tập thơ Quê Nhà và giấy phép xuất bản tại nha thông tin Trung Việt.

  • TRẦN DZẠ LỮ

    Gần một đời người làm thơ, sống giữa Sài Gòn với bao nhiêu thăng trầm dâu bể, có những ngày đói rách, lang thang. Bạn bè thì nhiều, có kẻ nhớ người quên sống khắp cùng đất nước, nơi đâu cũng để lại trong tôi ít nhiều kỷ niệm.

  • (SHO) Những người tôi gặp ở Huế trẻ hay già thường ngưỡng mộ anh là Thầy, một vị Thầy của môn âm nhạc, của tiếng, của lời, thân hay sơ mỗi người đều như chịu ít nhiều ân huệ của anh.  Nhưng thoạt mơ hồ tôi hiểu danh hiệu ấy khác hơn khi được ngồi với anh, bên bàn cơm, khi vui ca, khi đi dạo, khi nghe anh hát, khi thấy anh ngồi yên giữa bạn bè, anh hiện ra là vị Thầy bên trên âm nhạc... 

  • Mặc dù được các bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng GS-TS Trần Văn Khê đã vĩnh viễn ra đi vào lúc 2 giờ 55 phút ngày 24.6. Ông thọ 94 tuổi.

  • LTS: Ngày 17-7-1988 nhà thơ THANH TỊNH đã qua đời tại Hà Nội sau một cơn bệnh nặng, thọ 77 tuổi. Tưởng niệm nhà thơ, người anh người đồng nghiệp đáng kính của anh em văn nghệ sĩ Bình Trị Thiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của anh Hoàng Trung Thông và đoạn trích trong Điếu văn đọc tại lễ tưởng niệm nhà thơ tại trụ sở Hội văn nghệ B.T.T ngày 19-7-1988.

  • DƯƠNG THỊ NHỤN

    Tôi biết nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung là hàng xóm cũ của tôi những năm 90 của thế kỉ trước. Chị Dung là cháu ruột lại gần nhà ông ở phố Điện Biên Phủ nên rất thân thiết với ông. Tôi chỉ nghe chuyện và đọc truyện của nhà văn Bùi Ngọc Tấn qua chị Dung.

  • LGT: Thúc Tề và Trần Kim Xuyến là hai nhà báo có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam. Một vấn đề đặt ra là: trong hai nhà báo liệt sĩ nói trên, ai mới đúng là “Nhà báo liệt sĩ đầu tiên của báo chí cách mạng Việt Nam?”. Nhiều ý kiến công nhận nhà báo Trần Kim Xuyến là nhà báo liệt sĩ đầu tiên, trong khi các tư liệu lại cho chúng ta thấy Thúc Tề mới đúng là nhà báo liệt sĩ đầu tiên.

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Trong số bạn bè thân tình của tôi, Ngô Minh rất “lạ”. Lạ đầu tiên là… nhỏ thó. Người thấp bé, tròn vo, tròn vo từ mấy chục năm ni luôn, chừ lại suốt ngày (e cả suốt đêm) ngồi máy tính viết bài.

  • Nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như: Nhằm thẳng quân thù mà bắnThuyền trưởngRừng xưa xanh lá ;Kiếp chóNhững người rách việc; Chuyện kể năm 2000... đã qua đời vào lúc 6 giờ sáng ngày 18.12. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bước vào sáng tác văn chương từ năm 20 tuổi và đã có một bút lực dồi dào để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị.

  • Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 , quê  làng Trà Vi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông tham gia Hội Sinh viên thị xã Thái Bình thuộc Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và bị Pháp bắt vào cuối năm 1930 và bị giam hai tháng rưỡi tại thị xã Thái Bình.

  • Thi sĩ Kiên Giang là tác giả những bài thơ nổi tiếng Hoa trắng thôi cài lên áo tím, Tiền và lá, Ngủ bên chân mẹ… Ông cũng là soạn giả của những vở cải lương quen thuộc như Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới, Lưu Bình - Dương Lễ, Trương Chi - Mỵ Nương và hàng trăm bản vọng cổ. Như người bạn văn tâm giao Sơn Nam và thi sĩ đàn anh Nguyễn Bính, Kiên Giang cả một đời phiêu bạt sống rày đây mai đó, cho đến khi trái tim đột ngột ngừng đập”...

  • Ở tuổi 89, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - tác giả của ca khúc nổi tiếng "Dư âm" sống nghèo túng, bệnh tật và cô đơn trong căn nhà nhỏ giữa lòng Sài Gòn.

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Nhà văn Trần Áng Sơn sinh ngày 12/7/1937 tại Hải Phòng, lớn lên ở Huế, trưởng thành ở Sài Gòn, mất ngày: 18/5/ 2014.

  • QUANG VIÊN

    Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là vị tướng tài năng và đức độ. “Ông là một danh tướng, một nhà chính trị và nhà quân sự lỗi lạc” - Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thốt lên khi nhớ về Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như vậy. Trong cuộc sống tình cảm gia đình, cũng như ứng xử với văn hóa văn nghệ, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng hết sức chí tình, có những việc làm rất đáng khâm phục. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về ông rất hay: “Sáng trong như ngọc một con người”…