Người đi dạo

09:15 31/01/2019

RAY BRADBURY

Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.

Ảnh: internet

Đi vào trong cõi yên lặng thành phố lúc 8 giờ một tối mù sương tháng 11, đặt chân lên lề đường bê tông nứt nẻ, cất bước trên những bờ cỏ êm, hai tay đút túi, lần dò trong những khoảng yên tĩnh, đấy là những gì ông Leonard Mead vô cùng yêu thích. Ông sẽ đứng trên một góc ngã tư dõi mặt nhìn cả bốn phía những hè phố rộng thênh thang sáng ánh trăng, chọn hướng để đi, nhưng thực sự điều đó chẳng có gì quan trọng; ông đơn độc hay hầu như đơn độc trong thế giới năm 2.131 sau công nguyên; khi đã quyết định, đã chọn một lối đi, ông rảo bước, thở hắt ra làn hơi lạnh giá muôn hình như khói thuốc xì gà.

Đôi lúc ông bước đi hằng giờ đến mấy dặm đường, mãi đến nửa đêm mới quay về nhà. Trên đường đi ông thấy những căn nhà, những nơi trú ngụ với những cửa sổ tối tăm, chẳng khác gì bước qua một nghĩa trang, bởi vì chỉ có ánh sáng chập chờn yếu ớt của đom đóm ẩn hiện sau những cánh cửa sổ đó. Những bóng ma xám ngắt bất chợt hiện ra trên những bức tường phòng trong nơi màn cửa chưa kéo lại trong đêm, hay những tiếng rì rầm, thì thào nơi cửa sổ mở toang của một tòa nhà như hầm mộ.

Ông Leonard Mead thường dừng lại, nghiêng đầu, nghe ngóng rồi đi tiếp, bước chân yên lặng trên vỉa hè gồ ghề. Đã lâu lắm rồi, vỉa hè biến mất dưới những lớp cỏ hoa. Mười năm đi dạo trong đêm hay giữa ban ngày, hết cả ngàn dặm đường, ông chưa hề gặp một khách bộ hành nào - không một ai trong suốt thời gian đó.

Bây giờ khi đi dạo về đêm, ông thường mang giày vải, bởi vì lũ chó, chốc chốc lại rủ nhau hộ tống hành trình của ông với những tiếng sủa vang nếu ông mang giày đế cứng, rồi những ánh đèn bật lên lách cách, những khuôn mặt xuất hiện và cả phố sẽ hoảng lên vì một bóng người đơn độc, người đó chính là ông, lướt qua trong một đêm đầu tháng mười một.

Tối nay ông xuất hành về hướng Tây, đến vùng biển kín. Không gian băng giá như pha lê, lạnh buốt đầu mũi, khiến hai buồng phổi rực sáng lên như một cây thông giáng sinh. Có thể cảm thấy ánh sáng lạnh lẽo tắt đỏ, mọi cành điều phủ một lớp tuyết vô hình. Ông khoan khoái lắng nghe tiếng giày đùa nhẹ đám lá thu vàng, huýt khe khẽ một giai điệu lạnh lẽo giữa kẽ răng, chốc chốc nhặt lên một chiếc lá, xăm xoi xương lá trong ánh đèn chập chờn khi ông vừa bước đi vừa ngửi cái mùi rỉ rét của nó.

- Xin chào người ở trong nhà - ông thì thầm với từng căn nhà hai bên đường khi ông đi qua - Tối nay ở kênh số 4, kênh số 7, kênh số 9 có gì nhỉ? Đám cao bồi phóng ngựa đi đâu, và ta có thấy Kỵ binh Hoa Kỳ bên kia ngọn đồi kế cận đến cứu viện không? Đường phố hun hút, yên tĩnh và trống vắng, chỉ có bóng ông di động như bóng con chim ưng giữa trời thôn dã. Nếu nhắm mắt lại và đứng yên như đóng băng, ông hình dung chính mình giữa một vùng đồng bằng, nơi miền quê Arizona mùa đông lặng gió trong cả ngàn dặm không một mái nhà, chỉ có những dòng sông khô cạn - những đường phố làm bạn.

- Bây giờ là chương trình gì? - Ông hỏi những ngôi nhà vừa nhìn đồng hồ đeo tay - 8g30 tối. Giờ dành cho những vụ án mạng đủ loại? hay một cuộc thi? Kịch vui? hay một diễn viên hài giã từ sân khấu?

Có ai cười khẽ từ trong ngôi nhà sáng - ánh - trăng kia? Ông ngập ngừng rồi bước tiếp khi không có gì xảy ra nữa. Ông vấp chân vào một mô đất quá cao trên lề đường khi ông đến một ngã tư xếp chồng như cỏ ba lá nằm lặng lẽ nơi hai đường phố chính băng qua thành phố. Ở đây ban ngày xe cộ chạy ầm ầm với những trạm xăng mở cửa, đó là cả một con bọ to lớn đập cánh vù vù và luôn luôn vội vã giành chỗ nhau như loài bọ hung, ống khói tỏa mùi hương dìu dịu, đang lao vội về nhà ở tận chân trời xa tít. Nhưng bây giờ ngay cả những xa lộ này cũng như những dòng sông mùa khô, phơi toàn đá giữa lòng sông đầy ánh trăng.

Ông trở về theo một con đường nhỏ chạy vòng đến nhà. Chỉ còn độ một dãy phố nữa thì chiếc xe tuần cảnh bỗng nhiên quẹo qua ngã rẽ và một ánh sáng trắng dữ dội tỏa ra hình nón chiếu thẳng về phía ông. Ông đứng sững lại, chẳng khác gì một con bướm đêm, lảo đảo vì ánh đèn và bị cuốn hút về phía đó.

Một giọng lanh lảnh vang lên:

- Đứng yên. Không được nhúc nhích.

Ông đứng lại.

- Đưa tay lên.

- Nhưng... - Ông nói.

- Đưa tay lên không thì bắn!

Cảnh sát. Dĩ nhiên. Nhưng điều nầy thật hiếm hoi đến khó tin, trong một thành phố ba triệu dân, chỉ còn có một xe tuần cảnh. Cách đây một năm, 2130, năm Tổng tuyển cử, lực lượng cảnh sát giảm xuống từ 3 chiếc xe còn 1 chiếc. Tội phạm ngày một giảm; bây giờ chẳng cần cảnh sát, ngoại trừ chiếc xe tuần cảnh này lang thang giữa những phố vắng.

- Tên gì?

Chiếc xe tuần cảnh nói nhỏ bằng giọng kim. Vì chói mắt, ông không thấy người ngồi trong xe.

- Leonard Mead - ông đáp.

- Nói lớn lên!

- Leonard Mead!

- Kinh doanh hay làm nghề chuyên môn?

- Ông có thể gọi tôi là một người viết văn.

- Đấy không phải là nghề - Chiếc xe tuần cảnh đáp như cho chính nó nghe. Ánh sáng từ trong xe giữ chặt ông như một mẫu vật trong viện bảo tàng bị kim găm qua ngực.

- Có thể như vậy - Ông Mead nói. Mấy năm nay ông không viết lách gì. Sách báo không bán được nữa. Bây giờ, ông tiếp tục suy nghĩ, ban đêm mọi chuyện đều diễn ra trong những ngôi nhà như hầm mộ. Những ngôi mộ không đủ ánh sáng bởi màn ảnh truyền hình, nơi người ta ngồi như những kẻ đã chết, ánh sáng xám xịt hoặc nhiều màu chạm vào những khuôn mặt vô hồn nhưng thực sự chẳng bao giờ chạm được chúng.

- Đấy không phải là nghề - Giọng nói như tiếng máy thì thào - ông làm gì ngoài này?

- Đi dạo - ông Leonard Mead đáp.

- Đi dạo!

- Chỉ đi dạo mà thôi - ông nói, ngắn gọn, nhưng mặt ông bỗng lạnh đi.

- Đi dạo, chỉ đi dạo thôi ư?

- Vâng, thưa ông.

- Đi đâu? Để làm gì?

- Để hít thở và nhìn cảnh vật.

- Địa chỉ của ông?

- Số mười một phố South Saint James.

- Trong nhà ông cũng có không khí, ông có máy điều hòa không khí chứ, ông Mead?

- Có.

- Và ở nhà ông cũng có màn hình để nhìn cảnh vật?

- Không.

- Không à?

Một sự yên lặng khô khốc, trong đó có lời buộc tội.

- Ông có gia đình không, ông Mead?

- Không.

- Không có gia đình.

Giọng cảnh sát vang lên đằng sau ánh sáng rực lửa. Trăng lên cao vằng vặc giữa những vì sao và những ngôi nhà lặng lẽ xám ngắt.

- Chẳng ai cần đến tôi - ông Leonard mỉm cười.

- Khi nào hỏi mới được nói!

Ông Leonard Mead chờ đợi trong đêm lạnh.

- Chỉ đi dạo thôi hả, ông Mead?

- Vâng.

- Nhưng ông chưa giải thích vì sao ông đi dạo.

- Tôi giải thích rồi, để hít thở khí trời và nhìn cảnh vật và được đi bộ.

- Ông thường hay đi dạo như thế này?

- Đêm nào cũng đi, đã mấy năm nay.

Chiếc xe tuần cảnh đứng giữa đường. Chiếc loa vô tuyến rì rầm nho nhỏ.

- Được rồi, ông Mead.

- Chỉ có thế thôi?

- Vâng, xin mời ông - Có tiếng thở ra. Cửa sau chiếc xe tuần cảnh xịch mở. Mời ông vào.

- Khoan đã, tôi có làm gì đâu!

- Mời ông vào.

- Tôi phản đối!

- Ông Mead.

Ông bước đi như một kẻ bỗng dưng say rượu. Khi ngang qua cửa trước chiếc xe, ông nhìn vào. Như ông đã nghĩ, chẳng có ai ở ghế trước, chẳng có ai trong xe cả.

- Mời ông vào.

Ông đặt tay lên cửa nhìn vào hàng ghế sau, thực ra là một cái xà lim, một nhà tù chật hẹp đen ngòm có chấn song. Mùi thép đóng đinh tán tỏa lên cùng với mùi thuốc khử trùng nồng nặc; nó quá sạch sẽ và cứng cỏi như kim loại. Chẳng có gì mềm mại ở đó.

- Nếu ông có vợ để làm chứng vắng mặt ở nơi xảy ra sự việc - Giọng nói trong xe cứng rắn vang lên - Nhưng...

- Ông đưa tôi đi đâu?

Chiếc xe ngập ngừng, đúng hơn là nó đang phát ra tiếng lách cách khe khẽ như thử từ nơi nào đó chỉ thị được đưa vào bằng những phiếu đục lỗ dưới những con mắt điện tử - Đến trung tâm khảo cứu Tâm Bệnh học thoái hóa.

Ông bước vào xe. Cửa đóng nhẹ nhàng. Chiếc xe tuần cảnh lăn bánh qua những đại lộ về đêm, nhấp nháy ánh đèn mờ mờ phía trước.

Hoàng Nguyên dịch.
(TCSH44/01-1991)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.

  • YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.

  • KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.