RAY BRADBURY
Theo Ray Bradbury, truyện khoa học giả tưởng khác với sự tưởng tượng thuần túy ở chỗ nó là "một dự phóng hợp lý của thực tại". Vì vậy cuộc đi dạo ngắn ngủi này nói lên những gì ông suy nghĩ - hay lo sợ - có thể dễ dàng trở thành một bức tranh thật.
Ảnh: internet
Đi vào trong cõi yên lặng thành phố lúc 8 giờ một tối mù sương tháng 11, đặt chân lên lề đường bê tông nứt nẻ, cất bước trên những bờ cỏ êm, hai tay đút túi, lần dò trong những khoảng yên tĩnh, đấy là những gì ông Leonard Mead vô cùng yêu thích. Ông sẽ đứng trên một góc ngã tư dõi mặt nhìn cả bốn phía những hè phố rộng thênh thang sáng ánh trăng, chọn hướng để đi, nhưng thực sự điều đó chẳng có gì quan trọng; ông đơn độc hay hầu như đơn độc trong thế giới năm 2.131 sau công nguyên; khi đã quyết định, đã chọn một lối đi, ông rảo bước, thở hắt ra làn hơi lạnh giá muôn hình như khói thuốc xì gà.
Đôi lúc ông bước đi hằng giờ đến mấy dặm đường, mãi đến nửa đêm mới quay về nhà. Trên đường đi ông thấy những căn nhà, những nơi trú ngụ với những cửa sổ tối tăm, chẳng khác gì bước qua một nghĩa trang, bởi vì chỉ có ánh sáng chập chờn yếu ớt của đom đóm ẩn hiện sau những cánh cửa sổ đó. Những bóng ma xám ngắt bất chợt hiện ra trên những bức tường phòng trong nơi màn cửa chưa kéo lại trong đêm, hay những tiếng rì rầm, thì thào nơi cửa sổ mở toang của một tòa nhà như hầm mộ.
Ông Leonard Mead thường dừng lại, nghiêng đầu, nghe ngóng rồi đi tiếp, bước chân yên lặng trên vỉa hè gồ ghề. Đã lâu lắm rồi, vỉa hè biến mất dưới những lớp cỏ hoa. Mười năm đi dạo trong đêm hay giữa ban ngày, hết cả ngàn dặm đường, ông chưa hề gặp một khách bộ hành nào - không một ai trong suốt thời gian đó.
Bây giờ khi đi dạo về đêm, ông thường mang giày vải, bởi vì lũ chó, chốc chốc lại rủ nhau hộ tống hành trình của ông với những tiếng sủa vang nếu ông mang giày đế cứng, rồi những ánh đèn bật lên lách cách, những khuôn mặt xuất hiện và cả phố sẽ hoảng lên vì một bóng người đơn độc, người đó chính là ông, lướt qua trong một đêm đầu tháng mười một.
Tối nay ông xuất hành về hướng Tây, đến vùng biển kín. Không gian băng giá như pha lê, lạnh buốt đầu mũi, khiến hai buồng phổi rực sáng lên như một cây thông giáng sinh. Có thể cảm thấy ánh sáng lạnh lẽo tắt đỏ, mọi cành điều phủ một lớp tuyết vô hình. Ông khoan khoái lắng nghe tiếng giày đùa nhẹ đám lá thu vàng, huýt khe khẽ một giai điệu lạnh lẽo giữa kẽ răng, chốc chốc nhặt lên một chiếc lá, xăm xoi xương lá trong ánh đèn chập chờn khi ông vừa bước đi vừa ngửi cái mùi rỉ rét của nó.
- Xin chào người ở trong nhà - ông thì thầm với từng căn nhà hai bên đường khi ông đi qua - Tối nay ở kênh số 4, kênh số 7, kênh số 9 có gì nhỉ? Đám cao bồi phóng ngựa đi đâu, và ta có thấy Kỵ binh Hoa Kỳ bên kia ngọn đồi kế cận đến cứu viện không? Đường phố hun hút, yên tĩnh và trống vắng, chỉ có bóng ông di động như bóng con chim ưng giữa trời thôn dã. Nếu nhắm mắt lại và đứng yên như đóng băng, ông hình dung chính mình giữa một vùng đồng bằng, nơi miền quê Arizona mùa đông lặng gió trong cả ngàn dặm không một mái nhà, chỉ có những dòng sông khô cạn - những đường phố làm bạn.
- Bây giờ là chương trình gì? - Ông hỏi những ngôi nhà vừa nhìn đồng hồ đeo tay - 8g30 tối. Giờ dành cho những vụ án mạng đủ loại? hay một cuộc thi? Kịch vui? hay một diễn viên hài giã từ sân khấu?
Có ai cười khẽ từ trong ngôi nhà sáng - ánh - trăng kia? Ông ngập ngừng rồi bước tiếp khi không có gì xảy ra nữa. Ông vấp chân vào một mô đất quá cao trên lề đường khi ông đến một ngã tư xếp chồng như cỏ ba lá nằm lặng lẽ nơi hai đường phố chính băng qua thành phố. Ở đây ban ngày xe cộ chạy ầm ầm với những trạm xăng mở cửa, đó là cả một con bọ to lớn đập cánh vù vù và luôn luôn vội vã giành chỗ nhau như loài bọ hung, ống khói tỏa mùi hương dìu dịu, đang lao vội về nhà ở tận chân trời xa tít. Nhưng bây giờ ngay cả những xa lộ này cũng như những dòng sông mùa khô, phơi toàn đá giữa lòng sông đầy ánh trăng.
Ông trở về theo một con đường nhỏ chạy vòng đến nhà. Chỉ còn độ một dãy phố nữa thì chiếc xe tuần cảnh bỗng nhiên quẹo qua ngã rẽ và một ánh sáng trắng dữ dội tỏa ra hình nón chiếu thẳng về phía ông. Ông đứng sững lại, chẳng khác gì một con bướm đêm, lảo đảo vì ánh đèn và bị cuốn hút về phía đó.
Một giọng lanh lảnh vang lên:
- Đứng yên. Không được nhúc nhích.
Ông đứng lại.
- Đưa tay lên.
- Nhưng... - Ông nói.
- Đưa tay lên không thì bắn!
Cảnh sát. Dĩ nhiên. Nhưng điều nầy thật hiếm hoi đến khó tin, trong một thành phố ba triệu dân, chỉ còn có một xe tuần cảnh. Cách đây một năm, 2130, năm Tổng tuyển cử, lực lượng cảnh sát giảm xuống từ 3 chiếc xe còn 1 chiếc. Tội phạm ngày một giảm; bây giờ chẳng cần cảnh sát, ngoại trừ chiếc xe tuần cảnh này lang thang giữa những phố vắng.
- Tên gì?
Chiếc xe tuần cảnh nói nhỏ bằng giọng kim. Vì chói mắt, ông không thấy người ngồi trong xe.
- Leonard Mead - ông đáp.
- Nói lớn lên!
- Leonard Mead!
- Kinh doanh hay làm nghề chuyên môn?
- Ông có thể gọi tôi là một người viết văn.
- Đấy không phải là nghề - Chiếc xe tuần cảnh đáp như cho chính nó nghe. Ánh sáng từ trong xe giữ chặt ông như một mẫu vật trong viện bảo tàng bị kim găm qua ngực.
- Có thể như vậy - Ông Mead nói. Mấy năm nay ông không viết lách gì. Sách báo không bán được nữa. Bây giờ, ông tiếp tục suy nghĩ, ban đêm mọi chuyện đều diễn ra trong những ngôi nhà như hầm mộ. Những ngôi mộ không đủ ánh sáng bởi màn ảnh truyền hình, nơi người ta ngồi như những kẻ đã chết, ánh sáng xám xịt hoặc nhiều màu chạm vào những khuôn mặt vô hồn nhưng thực sự chẳng bao giờ chạm được chúng.
- Đấy không phải là nghề - Giọng nói như tiếng máy thì thào - ông làm gì ngoài này?
- Đi dạo - ông Leonard Mead đáp.
- Đi dạo!
- Chỉ đi dạo mà thôi - ông nói, ngắn gọn, nhưng mặt ông bỗng lạnh đi.
- Đi dạo, chỉ đi dạo thôi ư?
- Vâng, thưa ông.
- Đi đâu? Để làm gì?
- Để hít thở và nhìn cảnh vật.
- Địa chỉ của ông?
- Số mười một phố South Saint James.
- Trong nhà ông cũng có không khí, ông có máy điều hòa không khí chứ, ông Mead?
- Có.
- Và ở nhà ông cũng có màn hình để nhìn cảnh vật?
- Không.
- Không à?
Một sự yên lặng khô khốc, trong đó có lời buộc tội.
- Ông có gia đình không, ông Mead?
- Không.
- Không có gia đình.
Giọng cảnh sát vang lên đằng sau ánh sáng rực lửa. Trăng lên cao vằng vặc giữa những vì sao và những ngôi nhà lặng lẽ xám ngắt.
- Chẳng ai cần đến tôi - ông Leonard mỉm cười.
- Khi nào hỏi mới được nói!
Ông Leonard Mead chờ đợi trong đêm lạnh.
- Chỉ đi dạo thôi hả, ông Mead?
- Vâng.
- Nhưng ông chưa giải thích vì sao ông đi dạo.
- Tôi giải thích rồi, để hít thở khí trời và nhìn cảnh vật và được đi bộ.
- Ông thường hay đi dạo như thế này?
- Đêm nào cũng đi, đã mấy năm nay.
Chiếc xe tuần cảnh đứng giữa đường. Chiếc loa vô tuyến rì rầm nho nhỏ.
- Được rồi, ông Mead.
- Chỉ có thế thôi?
- Vâng, xin mời ông - Có tiếng thở ra. Cửa sau chiếc xe tuần cảnh xịch mở. Mời ông vào.
- Khoan đã, tôi có làm gì đâu!
- Mời ông vào.
- Tôi phản đối!
- Ông Mead.
Ông bước đi như một kẻ bỗng dưng say rượu. Khi ngang qua cửa trước chiếc xe, ông nhìn vào. Như ông đã nghĩ, chẳng có ai ở ghế trước, chẳng có ai trong xe cả.
- Mời ông vào.
Ông đặt tay lên cửa nhìn vào hàng ghế sau, thực ra là một cái xà lim, một nhà tù chật hẹp đen ngòm có chấn song. Mùi thép đóng đinh tán tỏa lên cùng với mùi thuốc khử trùng nồng nặc; nó quá sạch sẽ và cứng cỏi như kim loại. Chẳng có gì mềm mại ở đó.
- Nếu ông có vợ để làm chứng vắng mặt ở nơi xảy ra sự việc - Giọng nói trong xe cứng rắn vang lên - Nhưng...
- Ông đưa tôi đi đâu?
Chiếc xe ngập ngừng, đúng hơn là nó đang phát ra tiếng lách cách khe khẽ như thử từ nơi nào đó chỉ thị được đưa vào bằng những phiếu đục lỗ dưới những con mắt điện tử - Đến trung tâm khảo cứu Tâm Bệnh học thoái hóa.
Ông bước vào xe. Cửa đóng nhẹ nhàng. Chiếc xe tuần cảnh lăn bánh qua những đại lộ về đêm, nhấp nháy ánh đèn mờ mờ phía trước.
Hoàng Nguyên dịch.
(TCSH44/01-1991)
BỒ TÙNG LINHLang Mỗ quê ở Bành Thành, con nhà học thức. Ngày nhỏ đã được nghe cha nói đến các sách quý và các sách khác trong nước, lại thường được nghe cha luận bàn với các bạn bè của ông về các loại sách và các nhà thơ cổ đại.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.