Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.
Loló de la Torriente - Ảnh: internet
Sau khi bị khủng bố và giam cầm, bà đến ở Mê-hi-cô năm 1973 và sống ở đó trong hơn 15 năm. Trong số những tác phẩm đầu tiên của bà có bài nghiên cứu xuất sắc "La Havana de Cecilia Valdés" (Havana của Cecilia Valdés, nhân vật nữ chính của cuốn tiểu thuyết thế kỷ 19 có cùng tên, 1946). Bà cũng viết một tiểu sử thú vị về Pablo de la Torriente Brau, nhà báo Cuba nổi tiếng đã bỏ mình trong cuộc nội chiến Tây ban nha và là người bà có quan hệ họ hàng. Bà qua đời năm 1983. "Người đàn ông trong tủ kính" với bối cảnh Mê-hi-cô là một chuyện hoang đường về tình yêu. Được viết với một ý thức hài hước nó phản ánh văn phong tìm thấy trong vài tác phẩm hay nhất của bà.
LOLÓ DE LA TORRIENTE
Tôi thấy anh ta đứng trong tủ kính một cửa hiệu lớn. Đó là một chiều hè đẹp trời và tôi định đi dạo chơi qua khu phố buôn bán. Số tiền tiết kiệm để trong xách tay, tôi muốn mua một cái gì ngẫu hứng, một cái gì không có ích nhưng lại hấp dẫn. Tôi đi vào một tiệm bán đồ nữ trang nhưng cái gì cũng quá đắt tiền, rồi tôi bước vào một hàng tạp hóa. Thế nhưng tất cả đồ thủ công tôi thấy ở đó trông có vẻ như giả và chẳng đáng tin chút nào. Một tiệm bán hoa lớn đập vào mắt tôi nhưng tất cả hoa điều làm bằng chất dẻo trong khi tôi lại muốn có hoa hồng thật. Mãi đi tìm một cái gì thật, tôi lại luôn luôn tìm thấy cái dối trá, cái giả tạo. Xe đò phóng nhanh một cách ồn ào, để lại sau chúng những mùi hôi khó chịu. Xe đầy người gồm những cặp trai gái từ xưởng nhà máy, trường học về. Giao thông trở nên tắc nghẽn dần và đèn đường bắt đầu chiếu sáng trong một buổi hoàng hôn lờ mờ, ngột ngạt và khá buồn bã. Những người lái xe tắc xi thường ngừng lại khi có đèn đỏ và khi đèn chuyển sang màu xanh, họ cho xe chạy hết tốc lực như trong một cuộc đua dọc theo con đường rộng thẳng, có bề mặt đàng hoàng dẫn đến những con đường đông người hơn của cái đô thị huyên náo. Ở tận cuối góc trái của một tòa nhà chọc trời khổng lồ tôi thấy một đám đông đang tranh chỗ một cách sôi nổi. Họ ở bên ngoài một tủ kính nằm ngay ở chỗ đường cong. Ở đó một đường hẻm đổ khách bộ hành ra đại lộ chính. Nhìn khối lượng người đó, tôi để ý nó gồm hầu hết đó là những người đàn bà mệt mỏi, những cô nữ sinh trẻ trung hay những phụ nữ đã lập gia đình có mái tóc nhuộm màu và đôi môi hình trái tim. Tôi thận trọng tiến đến gần. Thỉnh thoảng chen lên một chút cho đến khi lên được phía trước. Ở đó, tôi thấy mình đối diện với một người đàn ông đứng trong tủ kính đang trình bày những dụng cụ bếp núc kỳ lạ bằng nhôm không cần dùng dầu nấu ăn. Cạnh anh ta là một chiếc bàn, một bếp điện, một tủ đựng thức ăn chứa đầy đồ hộp và một cái mỏ. Anh ta cần một chảo rán cá, đặt vào trong đó một con cá đỏ phủ đầy một thứ xúp đặc nghiền nhừ, những lát hành, cà rốt, đậu và vài thứ lá và rồi không thêm chút dầu nào, anh ta đặt chảo trên một bếp điện. Chẳng mấy chốc nó bắt đầu kêu xèo xèo. Khán giả của anh ta ngạc nhiên; vài người vỗ tay tán thưởng. Khách qua đường thường ngừng lại một lát rồi tiếp tục đi. Những người khác cũng chán bỏ đi, nhưng phụ nữ thì vẫn mãi mê đứng ngắm khuôn mặt duyên dáng của người đàn ông có thái độ nhã nhặn và giọng nói trầm như giọng nói du dương của một xướng ngôn viên đài phát thanh.
Tôi tiến đến thật gần để có thể trông anh ta rõ hơn. Một ánh đèn chiếu sáng trong cửa kính làm tất cả nét mặt của anh ta hiện rõ khi nhìn nghiêng. Rõ ràng anh ta là người La tinh và có thể là người Ý, một người mẫu cho một trong những bậc thầy hội họa với chiếc đầu xinh xắn, tóc đen, mặt trái xoan, đôi mắt càng đen thêm vì bộ lông mày và lông mi nghiêm nghị, miệng dày và bộ răng đẹp một cách kín đáo. Vóc người anh ta trung bình, không quá lớn mà cũng không quá bé. Tôi đoán tuổi anh ta không qua toàn bộ dáng dấp bên ngoài duyên dáng của anh ta cho bằng qua vẻ mặt. Đối với tôi, hình như anh ta đã trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của tuổi thanh xuân. Chắc chắn anh ta là một người đang ở đỉnh cao nhất của sức lực. Bây giờ, mãi nhiều năm về sau, tôi vẫn không thể phủ nhận sức quyến rũ của anh ta đối với tâm hồn tôi. Từ vị trí thuận lợi cho tuổi xuân tràn đầy của tôi, tôi tìm thấy ở anh ta mẫu người lý tưởng đối với một cô gái đang tuổi thanh niên như tôi bấy giờ. Tôi nghĩ anh ta không có và không thể có thể có khuyết điểm. Dù các bạn nhìn cách nào đi nữa, anh ta vẫn duyên dáng. Đối với tôi, bàn tay anh to dài, hơi xanh và mềm mại trông giống như cánh của một thiên thần trừ quỷ và tôi nhìn quanh tôi, nhìn đến đám phụ nữ đang tranh nhau và mong mỏi cùng nhau chinh phục được một người đàn ông rất xa lạ đối với cuộc sống nhỏ nhoi của chúng ta. Không thể sờ mó được, bí hiểm, đứng ở tận sau cửa kính bày hàng. Trong một tâm trạng khá buồn bã tôi rời khỏi nơi đã khiến tôi say đắm. Đêm đã xuống. Đã đến lúc dùng cơm tối và đi về nhà. Tôi đi bộ chậm rãi, trầm tư. Khi đi tôi tự mỉm cười một cách tinh quái, tự hỏi không biết tôi có yêu điên cuồng một người không có chất, mỏng manh như một miếng thiếc được tạo ra cho một chiến dịch quảng cáo? Khi tôi đi băng qua một con đường, một người tài xế hãm phanh một cách dữ dội và quát: "Coi chừng, cô bé kia! Tỉnh dậy đi, không thì đã toi rồi đấy!" Tôi vội vã đi tiếp và ngã quỵ xuống một chiếc ghế trong vườn. Tôi thấy rõ tôi đã trở nên đần độn. Người đàn ông đứng trong tủ kính bày hàng đã mê hoặc tôi. Một người kiểu đã trở nên cơn ác mộng của tôi và tôi sợ nó trở về ám ảnh.
Tôi thức dậy sớm, cảm thấy khó thở, miệng thì đắng khác thường, với một sự mệt mỏi vật chất lẫn tinh thần khiến tôi không thấy thèm ăn và cáu bẳn. Tôi thất vọng về thái độ của tôi. Tôi đau đớn thấy mình đã lãng phí gần trọn một buổi chiều đứng trước một cửa kính bày hàng, nhìn chằm chằm một người xa lạ phù phiếm và tầm thường. Tôi không thể tin điều đó... Tôi, rất biết lẽ phải, rất cần cù trong công việc, rất vui sướng và phấn khởi khi đi mua hàng và tìm được đúng cái tôi đang tìm kiếm... Tôi, vứt tất cả cơ hội mà tuổi trẻ cống hiến, đứng ở đó cho đến khi kiệt sức giữa đám người nhút nhát, lông bông chỉ vì một người đàn ông trong một tủ kính bày hàng mà ý nghĩ tôi không biết gì cả và con tim chẳng thuộc về tôi. Tôi, rất nhạy cảm trước sự thông minh ở người khác, rất chuộng văn hóa, lại yêu một người có những khả năng hạn chế như thế, một người có lẽ không tìm ra được cách nào khác để kiếm sống hơn là khai thác khuôn mặt duyên dáng của mình và lừa bịp quần chúng. Đời tôi sao phức tạp thế! Đã yêu một người mà đường đời rõ ràng trệch ra khỏi đường đời của tôi! Tuy vậy, bất chấp lập luận của tôi, sau bữa ăn trưa tôi vẫn mơ hồ cảm thấy băn khoăn và ngay khi đồng hồ chỉ năm giờ tôi chạy đến khu buôn bán để gặp người đàn ông đứng trong tủ kính bày hàng và tự bảo anh ta vẫn còn ở đó, để đảm bảo anh ta vẫn là người hôm trước. Từ xa tôi nhìn đám đông đang tập trung mà phần lớn là phụ nữ. Hôm nay anh ta đang quảng cáo hàng dành cho đàn ông. Anh ta đang mang quần áo thể thao. Anh ta không cần có sự cứng nhắc của một chiếc áo đuôi én hay vẻ tao nhã của một chiếc áo Ximốckinh để tỏ ra anh ta là một người hào hoa phong nhã thật sự lỗi lạc. Chiếc áo vét đi săn màu đen và chiếc áo sơ mi trắng rất hợp với anh. Anh ta nói vào micro một điều gì đó mà tôi không hiểu và sau đó âm nhạc rộn ràng như trong một rạp xiếc rộn lên trong khi anh ta cởi áo vét ra và đeo vào một chiếc ca vát to và nhẹ buông xuống ngực một cách tao nhã, tuyệt vời. Một lần nữa tôi lại ngưỡng mộ. Tôi hối hận về những ý nghĩ không xứng đáng của tôi đối với anh ta và tình yêu thầm kín của tôi lại được khơi dậy dù đó chỉ là sự xuẩn ngốc. Tôi sướng cuồng lên và công nhận anh ta là người có rất nhiều kinh nghiệm, điều mà tôi hoàn toàn thiếu. Tôi hình dung có được hạnh phúc nếu tôi có thể làm cho tuổi xuân của tôi hợp với sự trưởng thành dồi dào kinh nghiệm của anh ta và khi thành phố lần nữa chìm ngập trong bóng tối, tôi rời góc phố thú vị đó và vừa đi bộ về nhà vừa ngẫm nghĩ về những ý tưởng dại dột của tôi. Tôi đi ngủ với một cuốn tiểu thuyết của E-gơ-thơ Cờ-ri-xơ-ti để trấn tĩnh. Lúc tắt đèn tôi lại hoàn toàn tin là mình thật sự ngớ ngẩn. Thậm chí tôi có biết người đàn ông ấy không? Liệu chúng tôi có cùng quan điểm đối với những vấn đề quan trọng trong cuộc sống không? Anh ấy có yêu tôi không? Liệu trong mối quan hệ riêng tư nhất của chúng tôi anh ấy có làm tôi thỏa mãn không? Tôi sung sướng cười hà hà khi nghĩ đến việc hai người xa lạ làm tình với nhau sau khi gặp qua một ô cửa kính. Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi và rồi thức dậy, tỉnh táo và linh hoạt, nhận ra được sự điên rồ của mình và không còn ngu si, ngây ngô nữa. Lúc này người đàn ông đứng trong tủ kính bày hàng là một điều ảo tưởng mà tôi đã loại ra khỏi các dự tính của tôi.
Tháng trôi qua và tôi hoàn toàn quên hẳn người đàn ông ấy. Tôi đã không trở lại các cửa tiệm. Tất cả đã là một sự sai lầm nhất thời, không có gì quan trọng. Một hôm, tôi đến câu lạc bộ vào ban trưa, sung sướng và đầy lạc quan. Tôi mang một bộ quần áo màu trắng đơn giản, một chiếc váy ngắn, tóc buộc bằng một chiếc khăn tay có đốm xanh, tay cầm vợt. Tôi dừng lại trong phòng khách và ở đó, khi ngồi vào một bàn cờ, tôi thấy một người đàn ông rất giống người đứng ở tủ kính bày hàng, tay anh lướt nhanh trên những con cờ như những con bướm bay chợp chờn trên bụi hồng. Một cái gì trong tôi khiến tôi nôn nóng. Anh ta trông giống một bóng ma, một ảo ảnh tái hiện, một yêu tinh hiểm ác đã trở lại ám ảnh tôi. Tôi vội vã đi đánh quần vợt và chẳng mấy chốc người đàn ông lạ thường đó ngồi vào hàng đầu trong đám khán giả. Anh ta nhìn tôi chằm chằm. Khi cuộc chơi chấm dứt, anh ta tiến đến tôi. Anh ta đi một cách thảnh thơi duyên dáng và nói, miệng mỉm cười thân mật. "Tôi là Lu-xi-a-nô. Để tôi mua cho cô đồ uống nhé?" Tôi trả lời: "Cám ơn anh. Tôi là Đô-ri-xơ".
Tôi gọi một cốc kem dâu tây và bắt đầu ăn trong khi anh ta nhấp cà phê và thắp một điếu thuốc. Trước sự tươi mát của kem màu san hô hồng, các sở thích của tôi được hoàn toàn thỏa mãn. Đó là một buổi chiều trong sáng, ngào ngạt hương thơm của cây cỏ, ẩm ướt đang nở hoa. Tôi có cảm giác kỳ lạ và ước ao tôi cũng hút thuốc để qua một điếu thuốc có thể gặp gỡ anh ta và nhìn làn khói trắng nhỏ tan trong không khí trong như pha lê. Tôi thấy con tim tôi thỏa mãn và thân thể tôi hài lòng hơn lúc nào hết. Tư tưởng tôi thiếu đất vững chắc để đi trên đó. Tôi có ít kinh nghiệm sống và chỉ có một tình yêu lý tưởng đang chiếm một góc ký ức của tôi. Bây giờ sự phù phiếm đó có thể để sang một bên. Nó chẳng có ý nghĩa gì và tôi xem nó như một "cuộc mạo hiểm" cô đơn, ngớ ngẩn. Bây giờ người đàn ông đang ngồi ở bàn cờ kia tiêu biểu cho một vật cụ thể. Anh ta là một thực tại.
Chúng tôi lại gặp nhau. Tôi lặng lẽ đi vào câu lạc bộ. Anh ta đã có mặt ở bàn cờ rồi. Anh ta nhìn tôi. Tôi nhìn anh ta. Tôi tự mỉm cười. Có một sự cảm thông nào đó giữa chúng tôi và tôi biết anh ta là một người sành sỏi, một người thành thạo tinh thần phụ nữ. Có lẽ đó là lý do vì sao cảm xúc mạnh mẽ của tôi lại bột phát và sâu đậm. Tôi tự dối mình. Tôi trở nên mù quáng đến nỗi tôi không muốn chấp nhận lý luận nào cả. Anh ta là tình yêu xác thực của tôi bằng xương bằng thịt. Tôi tin chắc vào trí tuệ ưu việt và tình cảm cao quý của anh ta. Tính tình anh ta ắt hẳn là sôi nổi; tất cả sáng kiến anh ta chắc phải thành công. Bằng chính nỗ lực riêng, anh ta sẽ thành công trong cuộc sống. Pê-đê-ri-ca cứ tiếp tục phản đối nhưng chỉ làm tôi bực mình thôi. Tôi từ chối không nghe nàng nói nữa và thậm chí nghĩ rằng nàng đang can thiệp vào hạnh phúc của tôi. Không còn nghi ngờ gì nữa tình cảm của tôi mù điếc và hỗn độn hoàn toàn. Và thế là chúng tôi tiếp tục gặp nhau ở câu lạc bộ. Chúng tôi tham quan các phòng trưng bày sách, đến dự opêra, các buổi hòa nhạc và các cuộc triển lãm. Chúng tôi tham dự những buổi diễn ra mắt và những ngày hội. Anh ta điềm đạm và khôn ngoan còn tôi thì đang yêu. Chúng tôi thường xuất hiện đây đó nhiều lần đến nỗi lúc này người ta mong chúng tôi kết hôn với nhau. Anh ta hoài nghi tương lai. Nhưng tôi tìm được cách tạm thời làm phấn chấn anh ta và thậm chí làm thay đổi vẻ mặt mệt mỏi của anh, làm anh ta cười và mất hai chỗ lõm sâu hoắm chạy từ phía dưới ống nước mắt lên đến góc miệng khiến anh ta có diện mạo của một Đông Juoan đang già dần. Tôi muốn kết hôn và chuẩn bị mọi thứ cho nghi lễ được cử hành vào một chiều thứ bảy trong mùa xuân. Chúng tôi uống chung một ly rượu sâm banh, được người ta chúc mừng rồi lên một chiếc xe hơi để đưa chúng ta đến một bãi biển gần đấy để hưởng tuần trăng mật. Khi nắm chặt bánh lái, Lu-xi-a-nô ngả người qua và hôn má tôi. Cử chỉ âu yếm đó khiến tôi hạnh phúc. Rồi kinh ngạc và hơi sợ một chút, tôi thấy anh ta đang lái xe về phía khu buôn bán. Anh ta dừng lại ở một góc đường. Trời đang hoàng hôn và đèn đường đang tỏa ra một thứ ánh sáng óng ánh như bạc trong khi trên bầu trời, những đám mây màu chàm và màu hoa cà đang bay lơ lửng. Ở một góc đường khác, một đám đông phần lớn là phụ nữ đang tụ họp. Người đàn ông đứng trong tủ kính đang quảng cáo đĩa nhạc khiêu vũ. Anh ta có vẻ hời hợt, chân tay như làm bằng gỗ, ngớ ngẩn, thậm chí lố bịch nữa. Một cảm giác đang gặp nguy cơ chạy qua người tôi. Tôi khiếp sợ khi nghĩ rằng có lẽ anh ta đã đoán được tình yêu thầm kín của tôi đối với người kiểu đó và trong tấm gương nhìn sau cửa ô tô, tôi thấy người bạn thật của tôi để miệng vào tai tôi và nói: "Đô-ri-xơ này! Người đàn ông ấy chính là anh. Anh ta là một người máy có cơ thể của anh, có giọng nói nhân tạo; còn phong cách thì được tạo ra. Một kiệt tác của ngành cơ khí hiện đại phục vụ cho một độc quyền buôn bán đó mà. Họ trả lương cho anh rất hậu và anh không còn phải làm việc tại đây hay lo nghĩ về bất cứ vấn đề gì. Lu-xi-a-nô phải tìm trong túi của anh chai nước thơm Cô-lôn để tôi ngửi. Tôi đã ngất đi. Định mệnh đã xỏ chơi tôi một vố tàn nhẫn. Kết hôn với một người máy! Tất cả những khát vọng của tôi sẽ ra sao giờ đây khi tôi phải cùng ở với một người không còn có vấn đề gì nữa vì lẽ anh ta đã bán đi khả năng tư duy của mình.
TRẦN VĂN PHƯƠNG dịch
(TCSH40/01-1990)
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.
MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.
PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.
SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.
DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.
MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.
HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.
GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.
VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.
NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.
JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.
KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.
ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.
KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.
LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.