Sinh ở Manzanillo năm 1907, Loló de la Torriente sống ở Havana từ thuở nhỏ. Bà đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến đấu chống lại Machado và các chế độ ủng hộ đế quốc sau đó. Bà trở thành giáo viên và là một đảng viên của Đảng Cộng sản Cuba.
Loló de la Torriente - Ảnh: internet
Sau khi bị khủng bố và giam cầm, bà đến ở Mê-hi-cô năm 1973 và sống ở đó trong hơn 15 năm. Trong số những tác phẩm đầu tiên của bà có bài nghiên cứu xuất sắc "La Havana de Cecilia Valdés" (Havana của Cecilia Valdés, nhân vật nữ chính của cuốn tiểu thuyết thế kỷ 19 có cùng tên, 1946). Bà cũng viết một tiểu sử thú vị về Pablo de la Torriente Brau, nhà báo Cuba nổi tiếng đã bỏ mình trong cuộc nội chiến Tây ban nha và là người bà có quan hệ họ hàng. Bà qua đời năm 1983. "Người đàn ông trong tủ kính" với bối cảnh Mê-hi-cô là một chuyện hoang đường về tình yêu. Được viết với một ý thức hài hước nó phản ánh văn phong tìm thấy trong vài tác phẩm hay nhất của bà.
LOLÓ DE LA TORRIENTE
Tôi thấy anh ta đứng trong tủ kính một cửa hiệu lớn. Đó là một chiều hè đẹp trời và tôi định đi dạo chơi qua khu phố buôn bán. Số tiền tiết kiệm để trong xách tay, tôi muốn mua một cái gì ngẫu hứng, một cái gì không có ích nhưng lại hấp dẫn. Tôi đi vào một tiệm bán đồ nữ trang nhưng cái gì cũng quá đắt tiền, rồi tôi bước vào một hàng tạp hóa. Thế nhưng tất cả đồ thủ công tôi thấy ở đó trông có vẻ như giả và chẳng đáng tin chút nào. Một tiệm bán hoa lớn đập vào mắt tôi nhưng tất cả hoa điều làm bằng chất dẻo trong khi tôi lại muốn có hoa hồng thật. Mãi đi tìm một cái gì thật, tôi lại luôn luôn tìm thấy cái dối trá, cái giả tạo. Xe đò phóng nhanh một cách ồn ào, để lại sau chúng những mùi hôi khó chịu. Xe đầy người gồm những cặp trai gái từ xưởng nhà máy, trường học về. Giao thông trở nên tắc nghẽn dần và đèn đường bắt đầu chiếu sáng trong một buổi hoàng hôn lờ mờ, ngột ngạt và khá buồn bã. Những người lái xe tắc xi thường ngừng lại khi có đèn đỏ và khi đèn chuyển sang màu xanh, họ cho xe chạy hết tốc lực như trong một cuộc đua dọc theo con đường rộng thẳng, có bề mặt đàng hoàng dẫn đến những con đường đông người hơn của cái đô thị huyên náo. Ở tận cuối góc trái của một tòa nhà chọc trời khổng lồ tôi thấy một đám đông đang tranh chỗ một cách sôi nổi. Họ ở bên ngoài một tủ kính nằm ngay ở chỗ đường cong. Ở đó một đường hẻm đổ khách bộ hành ra đại lộ chính. Nhìn khối lượng người đó, tôi để ý nó gồm hầu hết đó là những người đàn bà mệt mỏi, những cô nữ sinh trẻ trung hay những phụ nữ đã lập gia đình có mái tóc nhuộm màu và đôi môi hình trái tim. Tôi thận trọng tiến đến gần. Thỉnh thoảng chen lên một chút cho đến khi lên được phía trước. Ở đó, tôi thấy mình đối diện với một người đàn ông đứng trong tủ kính đang trình bày những dụng cụ bếp núc kỳ lạ bằng nhôm không cần dùng dầu nấu ăn. Cạnh anh ta là một chiếc bàn, một bếp điện, một tủ đựng thức ăn chứa đầy đồ hộp và một cái mỏ. Anh ta cần một chảo rán cá, đặt vào trong đó một con cá đỏ phủ đầy một thứ xúp đặc nghiền nhừ, những lát hành, cà rốt, đậu và vài thứ lá và rồi không thêm chút dầu nào, anh ta đặt chảo trên một bếp điện. Chẳng mấy chốc nó bắt đầu kêu xèo xèo. Khán giả của anh ta ngạc nhiên; vài người vỗ tay tán thưởng. Khách qua đường thường ngừng lại một lát rồi tiếp tục đi. Những người khác cũng chán bỏ đi, nhưng phụ nữ thì vẫn mãi mê đứng ngắm khuôn mặt duyên dáng của người đàn ông có thái độ nhã nhặn và giọng nói trầm như giọng nói du dương của một xướng ngôn viên đài phát thanh.
Tôi tiến đến thật gần để có thể trông anh ta rõ hơn. Một ánh đèn chiếu sáng trong cửa kính làm tất cả nét mặt của anh ta hiện rõ khi nhìn nghiêng. Rõ ràng anh ta là người La tinh và có thể là người Ý, một người mẫu cho một trong những bậc thầy hội họa với chiếc đầu xinh xắn, tóc đen, mặt trái xoan, đôi mắt càng đen thêm vì bộ lông mày và lông mi nghiêm nghị, miệng dày và bộ răng đẹp một cách kín đáo. Vóc người anh ta trung bình, không quá lớn mà cũng không quá bé. Tôi đoán tuổi anh ta không qua toàn bộ dáng dấp bên ngoài duyên dáng của anh ta cho bằng qua vẻ mặt. Đối với tôi, hình như anh ta đã trải qua giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của tuổi thanh xuân. Chắc chắn anh ta là một người đang ở đỉnh cao nhất của sức lực. Bây giờ, mãi nhiều năm về sau, tôi vẫn không thể phủ nhận sức quyến rũ của anh ta đối với tâm hồn tôi. Từ vị trí thuận lợi cho tuổi xuân tràn đầy của tôi, tôi tìm thấy ở anh ta mẫu người lý tưởng đối với một cô gái đang tuổi thanh niên như tôi bấy giờ. Tôi nghĩ anh ta không có và không thể có thể có khuyết điểm. Dù các bạn nhìn cách nào đi nữa, anh ta vẫn duyên dáng. Đối với tôi, bàn tay anh to dài, hơi xanh và mềm mại trông giống như cánh của một thiên thần trừ quỷ và tôi nhìn quanh tôi, nhìn đến đám phụ nữ đang tranh nhau và mong mỏi cùng nhau chinh phục được một người đàn ông rất xa lạ đối với cuộc sống nhỏ nhoi của chúng ta. Không thể sờ mó được, bí hiểm, đứng ở tận sau cửa kính bày hàng. Trong một tâm trạng khá buồn bã tôi rời khỏi nơi đã khiến tôi say đắm. Đêm đã xuống. Đã đến lúc dùng cơm tối và đi về nhà. Tôi đi bộ chậm rãi, trầm tư. Khi đi tôi tự mỉm cười một cách tinh quái, tự hỏi không biết tôi có yêu điên cuồng một người không có chất, mỏng manh như một miếng thiếc được tạo ra cho một chiến dịch quảng cáo? Khi tôi đi băng qua một con đường, một người tài xế hãm phanh một cách dữ dội và quát: "Coi chừng, cô bé kia! Tỉnh dậy đi, không thì đã toi rồi đấy!" Tôi vội vã đi tiếp và ngã quỵ xuống một chiếc ghế trong vườn. Tôi thấy rõ tôi đã trở nên đần độn. Người đàn ông đứng trong tủ kính bày hàng đã mê hoặc tôi. Một người kiểu đã trở nên cơn ác mộng của tôi và tôi sợ nó trở về ám ảnh.
Tôi thức dậy sớm, cảm thấy khó thở, miệng thì đắng khác thường, với một sự mệt mỏi vật chất lẫn tinh thần khiến tôi không thấy thèm ăn và cáu bẳn. Tôi thất vọng về thái độ của tôi. Tôi đau đớn thấy mình đã lãng phí gần trọn một buổi chiều đứng trước một cửa kính bày hàng, nhìn chằm chằm một người xa lạ phù phiếm và tầm thường. Tôi không thể tin điều đó... Tôi, rất biết lẽ phải, rất cần cù trong công việc, rất vui sướng và phấn khởi khi đi mua hàng và tìm được đúng cái tôi đang tìm kiếm... Tôi, vứt tất cả cơ hội mà tuổi trẻ cống hiến, đứng ở đó cho đến khi kiệt sức giữa đám người nhút nhát, lông bông chỉ vì một người đàn ông trong một tủ kính bày hàng mà ý nghĩ tôi không biết gì cả và con tim chẳng thuộc về tôi. Tôi, rất nhạy cảm trước sự thông minh ở người khác, rất chuộng văn hóa, lại yêu một người có những khả năng hạn chế như thế, một người có lẽ không tìm ra được cách nào khác để kiếm sống hơn là khai thác khuôn mặt duyên dáng của mình và lừa bịp quần chúng. Đời tôi sao phức tạp thế! Đã yêu một người mà đường đời rõ ràng trệch ra khỏi đường đời của tôi! Tuy vậy, bất chấp lập luận của tôi, sau bữa ăn trưa tôi vẫn mơ hồ cảm thấy băn khoăn và ngay khi đồng hồ chỉ năm giờ tôi chạy đến khu buôn bán để gặp người đàn ông đứng trong tủ kính bày hàng và tự bảo anh ta vẫn còn ở đó, để đảm bảo anh ta vẫn là người hôm trước. Từ xa tôi nhìn đám đông đang tập trung mà phần lớn là phụ nữ. Hôm nay anh ta đang quảng cáo hàng dành cho đàn ông. Anh ta đang mang quần áo thể thao. Anh ta không cần có sự cứng nhắc của một chiếc áo đuôi én hay vẻ tao nhã của một chiếc áo Ximốckinh để tỏ ra anh ta là một người hào hoa phong nhã thật sự lỗi lạc. Chiếc áo vét đi săn màu đen và chiếc áo sơ mi trắng rất hợp với anh. Anh ta nói vào micro một điều gì đó mà tôi không hiểu và sau đó âm nhạc rộn ràng như trong một rạp xiếc rộn lên trong khi anh ta cởi áo vét ra và đeo vào một chiếc ca vát to và nhẹ buông xuống ngực một cách tao nhã, tuyệt vời. Một lần nữa tôi lại ngưỡng mộ. Tôi hối hận về những ý nghĩ không xứng đáng của tôi đối với anh ta và tình yêu thầm kín của tôi lại được khơi dậy dù đó chỉ là sự xuẩn ngốc. Tôi sướng cuồng lên và công nhận anh ta là người có rất nhiều kinh nghiệm, điều mà tôi hoàn toàn thiếu. Tôi hình dung có được hạnh phúc nếu tôi có thể làm cho tuổi xuân của tôi hợp với sự trưởng thành dồi dào kinh nghiệm của anh ta và khi thành phố lần nữa chìm ngập trong bóng tối, tôi rời góc phố thú vị đó và vừa đi bộ về nhà vừa ngẫm nghĩ về những ý tưởng dại dột của tôi. Tôi đi ngủ với một cuốn tiểu thuyết của E-gơ-thơ Cờ-ri-xơ-ti để trấn tĩnh. Lúc tắt đèn tôi lại hoàn toàn tin là mình thật sự ngớ ngẩn. Thậm chí tôi có biết người đàn ông ấy không? Liệu chúng tôi có cùng quan điểm đối với những vấn đề quan trọng trong cuộc sống không? Anh ấy có yêu tôi không? Liệu trong mối quan hệ riêng tư nhất của chúng tôi anh ấy có làm tôi thỏa mãn không? Tôi sung sướng cười hà hà khi nghĩ đến việc hai người xa lạ làm tình với nhau sau khi gặp qua một ô cửa kính. Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi và rồi thức dậy, tỉnh táo và linh hoạt, nhận ra được sự điên rồ của mình và không còn ngu si, ngây ngô nữa. Lúc này người đàn ông đứng trong tủ kính bày hàng là một điều ảo tưởng mà tôi đã loại ra khỏi các dự tính của tôi.
Tháng trôi qua và tôi hoàn toàn quên hẳn người đàn ông ấy. Tôi đã không trở lại các cửa tiệm. Tất cả đã là một sự sai lầm nhất thời, không có gì quan trọng. Một hôm, tôi đến câu lạc bộ vào ban trưa, sung sướng và đầy lạc quan. Tôi mang một bộ quần áo màu trắng đơn giản, một chiếc váy ngắn, tóc buộc bằng một chiếc khăn tay có đốm xanh, tay cầm vợt. Tôi dừng lại trong phòng khách và ở đó, khi ngồi vào một bàn cờ, tôi thấy một người đàn ông rất giống người đứng ở tủ kính bày hàng, tay anh lướt nhanh trên những con cờ như những con bướm bay chợp chờn trên bụi hồng. Một cái gì trong tôi khiến tôi nôn nóng. Anh ta trông giống một bóng ma, một ảo ảnh tái hiện, một yêu tinh hiểm ác đã trở lại ám ảnh tôi. Tôi vội vã đi đánh quần vợt và chẳng mấy chốc người đàn ông lạ thường đó ngồi vào hàng đầu trong đám khán giả. Anh ta nhìn tôi chằm chằm. Khi cuộc chơi chấm dứt, anh ta tiến đến tôi. Anh ta đi một cách thảnh thơi duyên dáng và nói, miệng mỉm cười thân mật. "Tôi là Lu-xi-a-nô. Để tôi mua cho cô đồ uống nhé?" Tôi trả lời: "Cám ơn anh. Tôi là Đô-ri-xơ".
Tôi gọi một cốc kem dâu tây và bắt đầu ăn trong khi anh ta nhấp cà phê và thắp một điếu thuốc. Trước sự tươi mát của kem màu san hô hồng, các sở thích của tôi được hoàn toàn thỏa mãn. Đó là một buổi chiều trong sáng, ngào ngạt hương thơm của cây cỏ, ẩm ướt đang nở hoa. Tôi có cảm giác kỳ lạ và ước ao tôi cũng hút thuốc để qua một điếu thuốc có thể gặp gỡ anh ta và nhìn làn khói trắng nhỏ tan trong không khí trong như pha lê. Tôi thấy con tim tôi thỏa mãn và thân thể tôi hài lòng hơn lúc nào hết. Tư tưởng tôi thiếu đất vững chắc để đi trên đó. Tôi có ít kinh nghiệm sống và chỉ có một tình yêu lý tưởng đang chiếm một góc ký ức của tôi. Bây giờ sự phù phiếm đó có thể để sang một bên. Nó chẳng có ý nghĩa gì và tôi xem nó như một "cuộc mạo hiểm" cô đơn, ngớ ngẩn. Bây giờ người đàn ông đang ngồi ở bàn cờ kia tiêu biểu cho một vật cụ thể. Anh ta là một thực tại.
Chúng tôi lại gặp nhau. Tôi lặng lẽ đi vào câu lạc bộ. Anh ta đã có mặt ở bàn cờ rồi. Anh ta nhìn tôi. Tôi nhìn anh ta. Tôi tự mỉm cười. Có một sự cảm thông nào đó giữa chúng tôi và tôi biết anh ta là một người sành sỏi, một người thành thạo tinh thần phụ nữ. Có lẽ đó là lý do vì sao cảm xúc mạnh mẽ của tôi lại bột phát và sâu đậm. Tôi tự dối mình. Tôi trở nên mù quáng đến nỗi tôi không muốn chấp nhận lý luận nào cả. Anh ta là tình yêu xác thực của tôi bằng xương bằng thịt. Tôi tin chắc vào trí tuệ ưu việt và tình cảm cao quý của anh ta. Tính tình anh ta ắt hẳn là sôi nổi; tất cả sáng kiến anh ta chắc phải thành công. Bằng chính nỗ lực riêng, anh ta sẽ thành công trong cuộc sống. Pê-đê-ri-ca cứ tiếp tục phản đối nhưng chỉ làm tôi bực mình thôi. Tôi từ chối không nghe nàng nói nữa và thậm chí nghĩ rằng nàng đang can thiệp vào hạnh phúc của tôi. Không còn nghi ngờ gì nữa tình cảm của tôi mù điếc và hỗn độn hoàn toàn. Và thế là chúng tôi tiếp tục gặp nhau ở câu lạc bộ. Chúng tôi tham quan các phòng trưng bày sách, đến dự opêra, các buổi hòa nhạc và các cuộc triển lãm. Chúng tôi tham dự những buổi diễn ra mắt và những ngày hội. Anh ta điềm đạm và khôn ngoan còn tôi thì đang yêu. Chúng tôi thường xuất hiện đây đó nhiều lần đến nỗi lúc này người ta mong chúng tôi kết hôn với nhau. Anh ta hoài nghi tương lai. Nhưng tôi tìm được cách tạm thời làm phấn chấn anh ta và thậm chí làm thay đổi vẻ mặt mệt mỏi của anh, làm anh ta cười và mất hai chỗ lõm sâu hoắm chạy từ phía dưới ống nước mắt lên đến góc miệng khiến anh ta có diện mạo của một Đông Juoan đang già dần. Tôi muốn kết hôn và chuẩn bị mọi thứ cho nghi lễ được cử hành vào một chiều thứ bảy trong mùa xuân. Chúng tôi uống chung một ly rượu sâm banh, được người ta chúc mừng rồi lên một chiếc xe hơi để đưa chúng ta đến một bãi biển gần đấy để hưởng tuần trăng mật. Khi nắm chặt bánh lái, Lu-xi-a-nô ngả người qua và hôn má tôi. Cử chỉ âu yếm đó khiến tôi hạnh phúc. Rồi kinh ngạc và hơi sợ một chút, tôi thấy anh ta đang lái xe về phía khu buôn bán. Anh ta dừng lại ở một góc đường. Trời đang hoàng hôn và đèn đường đang tỏa ra một thứ ánh sáng óng ánh như bạc trong khi trên bầu trời, những đám mây màu chàm và màu hoa cà đang bay lơ lửng. Ở một góc đường khác, một đám đông phần lớn là phụ nữ đang tụ họp. Người đàn ông đứng trong tủ kính đang quảng cáo đĩa nhạc khiêu vũ. Anh ta có vẻ hời hợt, chân tay như làm bằng gỗ, ngớ ngẩn, thậm chí lố bịch nữa. Một cảm giác đang gặp nguy cơ chạy qua người tôi. Tôi khiếp sợ khi nghĩ rằng có lẽ anh ta đã đoán được tình yêu thầm kín của tôi đối với người kiểu đó và trong tấm gương nhìn sau cửa ô tô, tôi thấy người bạn thật của tôi để miệng vào tai tôi và nói: "Đô-ri-xơ này! Người đàn ông ấy chính là anh. Anh ta là một người máy có cơ thể của anh, có giọng nói nhân tạo; còn phong cách thì được tạo ra. Một kiệt tác của ngành cơ khí hiện đại phục vụ cho một độc quyền buôn bán đó mà. Họ trả lương cho anh rất hậu và anh không còn phải làm việc tại đây hay lo nghĩ về bất cứ vấn đề gì. Lu-xi-a-nô phải tìm trong túi của anh chai nước thơm Cô-lôn để tôi ngửi. Tôi đã ngất đi. Định mệnh đã xỏ chơi tôi một vố tàn nhẫn. Kết hôn với một người máy! Tất cả những khát vọng của tôi sẽ ra sao giờ đây khi tôi phải cùng ở với một người không còn có vấn đề gì nữa vì lẽ anh ta đã bán đi khả năng tư duy của mình.
TRẦN VĂN PHƯƠNG dịch
(TCSH40/01-1990)
Yamakawa Masao (1930 - 1965), tên thật là Yamakawa Yoshimi, ông sinh ở Tokyo, tốt nghiệp Đại học tư thục Keo (khoa Pháp văn). Yamakawa Masao từng làm biên tập cho Tạp chí văn học Mita Bungaku. Sau đó ông viết và công bố các truyện ngắn như: Cái chết mỗi ngày, Năm ấy, Công viên ven biển… với phong cách tinh tế, miêu tả sự phi lý của cái chết và tuổi trẻ thời kỳ hậu chiến. Ông qua đời năm 34 tuổi do tai nạn giao thông.
Nhà văn Ấn Độ (người Hindi), Krishna Baldev Vaid sinh năm 1927. Ông học đại học tại Punjab và Harvard; dạy học tại nhiều trường đại học ở Ấn Độ và Mỹ. Ông viết tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, phê bình và dịch thuật văn học. Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Ý, Ba Lan, Nga, Nhật và các tiếng khác ở Ấn Độ.
HÁCH XUYÊN THỨ LANG
(Nhật)
Phải dấu việc này không cho anh ấy biết. Lãng Tử nghĩ vậy và nắm chặt bao nhỏ trong tay, tần ngần rảo bước trên cầu. Đêm tối không người với dòng sông lặng lẽ trôi giữa một màn đen kịt, và rồi nó sẽ mang đi điều bí mật của ta.
DHUMKETU
Dhumketu là bút danh của Gaurishankar Govardhauram, là nhà văn Ấn Độ (1892 - 1965), thường được xem như là một trong những người khai sáng loại hình truyện ngắn. Tác phẩm của ông thường có bút pháp gây xúc động, lãng mạn hoặc miêu tả đậm nét những cảm xúc của con người.
CORMAC MCCARTHY
YAMAMOTO SHUGORO
VIRGINIA WOOLF
Rivka Galchen là nhà văn, biên tập viên tờ The New Yorker, với nhiều đóng góp về truyện ngắn và tiểu luận phi hư cấu cho tạp chí này từ năm 2008. Nữ nhà văn thường viết về khoa học và y học.
Ray Bradbury (1920 - 2012) là nhà văn lừng danh của Mỹ, tham gia văn đàn và thế giới điện ảnh sôi nổi trong suốt hơn 7 thập kỷ. Ông đã viết 27 tiểu thuyết và hơn 600 truyện ngắn. Truyện ngắn The Veldt (Thảo nguyên châu Phi) là một tiên đoán về mặt trái của công nghệ đang phần nào chạy theo những nhu cầu phi nhân bản của con người.
JACK LONDON
Ngày đã trở nên lạnh lẽo và u ám, rất lạnh và rất u ám khi người đàn ông rẽ sang lối khác từ đường mòn Yukon và đi lên một bờ đất cao nơi có một đường mòn mờ mờ, ít người qua lại dẫn về hướng đông, xuyên qua rừng cây vân sam với những thân cây chắc khỏe.
SHIMAZAKI TOSON
Hirabayashi Hatsunosuke (1892 - 1931), sinh ra tại làng Fukada, quận Taken, Tokyo, tốt nghiệp Khoa tiếng Anh Đại học Waseda. Ông hoạt động như một nhà lý luận của phong trào vô sản thời kỳ đầu.
TED HUGHES
ARESS MOHAMED
Trong lòng con thuyền đang lênh đênh trên mặt biển là 12 người, 7 đàn ông, 4 phụ nữ và 1 đứa trẻ. Đứa bé hình như đang thiếp đi trong vòng tay mẹ nó. Tính đến nay, con thuyền đã trôi được bốn ngày.
MACARIO D. TIU (Philippines)
Hồi đó tôi chỉ có 3 tuổi nhưng tôi nhớ rất rõ đám cưới của anh Peter và chị Linda. Tôi nhớ nhất là được đùa giỡn trên chăn gối tinh tươm của chiếc giường dành cho đôi tân lang và tân giai nhân. Tôi sau đó mới biết là đùa giỡn như vậy sẽ giúp cho họ mau có con trai đầu lòng. Tôi được chọn để đùa giỡn vì tôi tráng kiện và mập mạp.
INUTA SHIGERU
ROGER DEAN KISER (Hoa Kỳ)
Tôi bước vào nhà hàng Huddle House ở Brunswick, Georgia và ngồi ngay quầy vì hết sạch chỗ. Tôi cầm thực đơn lên và bắt đầu xem những món ăn khác nhau và cố quyết định sẽ ăn sáng hay nhịn tới trưa luôn.
IVAN BUNIN
Ivan Bunin (1870 - 1953), nhà văn Nga đầu tiên được trao giải Nobel, năm 1933. Ông nổi tiếng với ‘một nghệ thuật nghiêm cẩn’, mà với nó ông ‘tiếp tục những truyền thống cổ điển Nga trong sáng tác văn thơ’.
OKAMOTO KIDO
BĂNG TÂM
Sinh sống trong suốt chiều dài thế kỷ XX, Băng Tâm là một khuôn mặt tiêu biểu của văn học Trung Quốc, ảnh hưởng lớn đến các nhà văn thời đại bà, với nhiều thể loại khác nhau, kể cả văn học dành cho tuổi trẻ. Tên thật là Tạ Uyển Oánh (谢婉莹), bà lấy bút danh là Băng Tâm (冰心) với mong muốn giữ một lý tưởng thanh khiết, mượn từ ý thơ của Vương Xương Linh: Tâm hồn như một khối băng trong một chậu ngọc.