5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, hơn 120.000 lính Trung Quốc tràn vào Việt Nam, mở đầu cho cuộc chiến nhà cầm quyền Bắc Kinh huy động tới hơn 600.000 quân tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc của Tổ quốc ta.
Khi Tổ quốc lâm nguy, người dân cũng thành chiến sĩ
Trong ngày đầu tiên, tổng cộng quân Trung Quốc tấn công trên 26 điểm. Một dải biên cương từ Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn, Móng Cái... mịt mù khói súng. Trận chiến tại Đồng Đăng (Lạng Sơn) bắt đầu ngay từ ngày 17-2-1979 vô cùng ác liệt. Đội quân đến từ bên kia biên giới bao gồm 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng dưới sự chi viện của 6 trung đoàn pháo binh.
Nhưng, đạo quân xâm lược đã gặp sự giáng trả quyết liệt của bộ đội địa phương, dân quân du kích và cả những người dân bình thường nhất- nhưng họ mang trong tim mình tình yêu thiêng liêng với Tổ quốc.
Thời gian trôi qua đã 35 năm, hôm nay nhìn lại, chúng ta vẫn vô cùng biết ơn những chiến sĩ, dân quân du kích địa phương, những người dân bình thường nhất đã xả thân cho Tổ quốc, gìn giữ từng thước đất cha ông để lại.
Cuộc chiến tranh chính nghĩa biên giới phía Bắc năm 1979 một lần nữa cho thấy sức mạnh vô cùng to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là truyền thống giữ nước của dân tộc Việt Nam, khi mà giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, còn cái lai quần cũng đánh; một cậu bé lên 3 cũng vụt lớn lên thành dũng sĩ với sức mạnh thánh thần: nhổ cả bụi tre làm vũ khí diệt thù.
Trong cuộc chiến đó, không ai quên được sự dã man của đội quân đến từ bên kia biên giới. Mìn, bộc phá được đặt tại các cột điện, đánh sập cầu, đánh sập cả trường học, bệnh viện. Không biết bao nhiêu người dân lành vô tội bỗng chốc bị sát hại. Cảnh những người già, trẻ thơ buộc phải dời bỏ ngôi nhà, dời bỏ làng xóm quê hương để tản cư rút về phía sau trong suốt những ngày chiến trận để tránh sự sát hại không sao có thể quên được. Không chỉ dùng mìn, bộc phá, sự tàn bạo còn đến từ những chiếc rìu, những con dao quắm. Nhưng, sự tàn bạo ấy không khuất phục được những con người bền lòng vì nước. Hầu như tất cả thanh niên vùng biên giới phía bắc lúc bấy giờ, cả nam và nữ đều ở lại chiến trường. Họ vụt trở thành những người chiến sĩ qủa cảm. Họ bước vào cuộc chiến với tất cả sự hiến dâng cho đất nước không một chút so đo tính toán. Khi đất nước đã gọi tên mình thì không ai có thể đứng ngoài cuộc. Từng hốc đá, từng bụi cây, từng dòng suối vùng biên giới cũng biến thành trận địa chặn bước tiến của quân thù.
Hôm nay, trở lại cửa khẩu Thanh Thủy (Hà Giang), người ta vẫn thấy ở nơi này một cây gạo mà thân mình chi chít vết thương do đạn pháo Trung Quốc. Cây gạo là một chứng cứ không thể chối cãi về sự phi nhân của cuộc chiến do Trung Quốc gây ra đối với Việt Nam 35 năm trước. Cây gạo thương tích ấy như một biểu tượng về sự bất khuất của người dân Việt Nam trong cuộc chiến cam go để bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Hôm nay, trở lại Lạng Sơn, thành phố vùng biên ải đã phát triển mạnh nhưng vẫn còn đó dấu tích của cuộc chiến, dấu tích của bom đạn. Những vườn hồi, những vườn thảo quả tươi tốt hôm nay trước đây 35 năm không còn một cây nào lành lặn. Người dân Cao Bằng, Lai Châu, Hà Giang, Quảng Ninh, Lạng Sơn... không quên những ngày gian khổ cận kề cái chết, nhưng họ đã vượt lên đau thương, vượt lên mọi khó khăn để xây dựng lại quê hương mình. Cả một dải biên cương khói lửa bị tàn phá ngày ấy nay đã trở lại xanh tươi. Những con dân nước Việt sống tại biên giới chính là phên dậu của Tổ quốc. Họ đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh của mình trong thời chiến cũng như thời bình. Họ chính là những người anh hùng vô danh đã góp phần mình vào sự bình yên, sự toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Nhớ về cuộc chiến cách đây 35 năm, chúng ta tự hào về nghệ thuật quân sự của Việt Nam- tự hào về đội quân bách chiến bách thắng của dân tộc. Chúng ta càng tự hào hơn về tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, những con người hiền lành yêu chuộng hòa bình, nhưng khi Tổ quốc lâm nguy đã không tiếc cuộc sống của mình làm lá chắn giữ gìn đất nước. Thế trận toàn dân cũng chính là điều làm nên sức mạnh vô địch của đất nước Việt Nam. Khi giặc đến, mọi người Việt Nam bất luận trẻ già, là nam hay nữ, không phân biệt tôn giáo, dân tộc- đều cùng mang chung một tên gọi: NGƯỜI VIỆT NAM. Tổ quốc mãi mãi biết ơn họ, những người giữ nước không để lại tên tuổi. Tên tuổi của họ không có trên những tấm bằng khen; trên ngực họ không lấp lánh huy chương nhưng họ đã làm nên Đất nước.
Một lần nữa xin được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với những người dân lành chốn biên cương trong cuộc chiến tranh giữ nước năm 1979: khi mà bộ đội chủ lực của ta chưa dồn lực cho biên giới phía Bắc thì chính họ đã trở thành những lá chắn sống bảo vệ Đất nước Việt Nam thương yêu!
Theo daidoanket.vn
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "
Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.
Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H
Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.
Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.
Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?
Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.
Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.
Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!