HỒ TRUNG LIÊN
Vẫn còn đêm. Tôi choàng dậy bật điện. Ánh sáng lao ra hòa vào lớp trăng mỏng tràn xuống từ ngọn núi phía trước.
Minh họa: Đặng Mậu Tựu
Chưa bao giờ tôi chìm vào trạng thái như thế này. Mê man. Chợp mắt lại ác mộng hiện tiền. Có bàn tay vô hình bóp nghẹt tim. Mồ hôi nhễ nhại. Tôi không dám nhắm mắt nữa; hơi chìm vào giấc ngủ là bắt đầu của sự khiếp đảm. Từ ngày đặt chân lên đại ngàn gió núi, tôi gần như sống với những linh hồn. Những bức tượng nhà mồ trò chuyện với tôi trong thinh lặng. Thời gian tàn tạ trôi. Ngôi nhà lá tạm bợ vẫn nguyên xưa, bên trong những bức tượng nằm ngồi ngổn ngang. Không ai lên tiếng trách cứ tôi điều gì. Chưa bao giờ tôi mất hết hứng thú và khả năng sáng tạo trước những bức tượng nhà mồ buồn não. Phải chăng sự xuất hiện một nhân vật mới đã làm đảo lộn hết thảy? Nàng oán hờn, cản trở tôi hay ai đó bên kia thế giới đang giam giữ nàng trong cơn đau của ái tình. Linh cảm thần chết đang sờ gáy, vẫn gượng dậy nhìn bức tượng dở dang. Bất lực. Muốn chẻ, tước, đốt đi, nàng hãy tự tìm cho mình một gốc cây nương náu. Mới nghĩ vậy nước mắt tôi chực ứ. Nàng đang bơ vơ trong những chiều lạnh, trong tiếng chiêng xao xác rung ngân từ bản. Tôi cầm rìu đẽo thêm mấy nhát. Bỗng rùng mình. Máu. Tôi đang đẽo vào thân thể một con người bằng xương thịt, nhát dao sâu nhất ăn cả vào xương tủy. Tôi ngã vật. Trước lúc chìm vào một dạng chết lâm sàng, mùi nồng nã của gỗ mít tươi nguyên còn len vào thớ não.
Tôi không sợ những linh hồn bước ra từ vô số bức tượng mình tạo dáng. Vẫn luôn cô đơn trong cuộc trò chuyện, còn họ chưa bao giờ xuất hiện trong giấc mơ của tôi. Khuôn mặt nàng chưa lộ, vết tạc thô buồn thảm, chưa ai trong bản có thể nhận ra. Hay chăng vì thế nàng xuất hiện trong cơn mê sảng của tôi với hình dạng nhầy nhụa, lấm lem gớm guốc. Giá nàng thét gào hãy mau tạc hình hài để nàng được thừa nhận trong không gian cõi khác. Và cứ mỗi lần tôi dựng khúc gỗ, đẽo vào một nhát dao tức thì máu tuôn. Tháng tám trăng vằng vặc. Tôi lập lờ dưới trăng, bước đến cả bên mộ nàng. Nàng không ở đó. Ngôi nhà mồ lẻ loi hiu quạnh, lá cây chất đầy ngõ. Hướng cửa chính đêm nào trăng cũng rọi. Lần cuối cùng tôi vuốt lên bầu má còn hồng lúc nàng nằm trong chiếc quan tài bằng gỗ lọt sâu dưới huyệt. Tôi nhớ rõ thế nằm của nàng, đêm thu nào ánh trăng cũng phả vào khuôn mặt rỡ ràng ấy. Thật khuya trăng mới khuất vào rặng núi, đó là thời điểm nàng ngủ giấc dài cho đến lúc mặt trời nhô cao phía sau đầu.
Ngọn núi đã thấp xuống. Dự án khai thác quặng khiến nó như con rắn quằn quại đau đớn. Càng tới gần trông thân thể ấy lở loét, nước rỉ từ lòng núi đỏ quạch. Tôi miên man rít thuốc. Đêm. Tĩnh lặng. Chỉ duy căn nhà của già làng chong đèn. Mấy con dê nằm ở sân còn thức, đôi mắt long lên. Già Pia ngồi bên bếp, trên là nồi rượu từng giọt chậm rơi xuống bát. Già không hỏi tôi, với tay lấy chai thay vào bát rượu, hơi bốc thơm nồng.
- Uống đi.
Tôi làm ngụm lớn. Rượu chảy tới đâu nóng rật tới đó. Tiếng khà thật mạnh. Tôi cúi mình bóp trán. Già Pia đứng dậy cầm con dao cắt miếng thịt khô trên dàn ném vào bếp. Tôi làm thêm ngụm nữa. Rượu ngon réo lưỡi. Già Pia nâng bát uống hết chỗ rượu còn lại. Rượu đã giọt thêm được một khúc chai. Tôi đẩy củi, khơi than. Mỡ thịt khô cháy khét. Tôi nhai miếng mồi, nhìn già Pia nén thuốc vào nõ. Già ém hơi thuốc sâu nơi cuống họng, mãi mới thả cuộc đặc quánh. Tôi nhìn đôi mắt hơi nheo và làn da nhăn rúm ấy, nghĩ đến lúc mình sẽ đẽo bức tượng nhà mồ cho già bằng hình ảnh bây giờ.
Chuếnh choáng, tôi bước về với một quyết tâm sẽ đẽo xong bức tượng cho nàng ngay trong đêm. Tiếng đứa trẻ khóc dài. Dường như nó đã khóc lâu lắm. Căn nhà đỏ điện. Chồng nàng có qua nhà khác ngủ lại? Em gái của nàng chắc đang trong ngôi nhà ấy dỗ cháu. Tôi đứng lại phía ngoài. Người con gái ấy tôi đã nhầm là nàng lần đầu tiên bắt gặp khi đặt chân lên vùng đất của đại ngàn xanh thẳm. Định bước vào. Chút ánh sáng hắt ra từ phên vách. Tôi kịp thụt vào tàng cây, và bước.
Ngả lưng lên sàn, châm điếu thuốc riết mạnh, sẽ tỉnh táo hơn để tôi hoàn thành chân dung nàng. Nhưng rồi thứ nhựa đặc quánh trong không gian trùm xuống. Càng cựa quậy nó càng quyện lại dẻo quẹo, cho đến lúc toàn thân tôi mỏi rời. Thấy mình chới với giữa mặt biển vắng tanh, với những nhịp bơi chậm dần, xuội dần... Tôi sẽ ngủ một giấc sâu nhất từ lúc chạm vào thân thể nàng, nếu như không có tiếng chạm khoét vào thân gỗ, đều đều. Nó đánh thức tôi một cánh lặng lẽ, nhưng lúc tôi vừa tỉnh thì giật mình, vùng dậy chộp lấy đèn pin rọi vào bức tượng dở dang - là nàng. Tại sao tôi không rọi vào những bức tượng khác hay vào bất cứ thứ gì trong nhà; một phản ứng như được chỉ đạo từ tâm thức, tôi không lý giải được. Điều tôi nhớ ngay đến đầu tiên lúc từ cơn ác mộng hay từ cõi chết bước ra chăng nữa chính là nàng. Khúc gỗ mít nằm nguyên chỗ cũ, không ai đẽo thêm một nét. Nàng còn mờ trong sương ảo.
Tôi bó gối nhìn ra. Một thế ngồi rất giống với nhiều mẫu tượng đã tạc. Khu nhà mồ của bản hầu hết là tượng từ chính đôi bàn tay tôi. Đó là lối ngoặt cuộc đời. Từ một người điêu khắc nghiệp dư, đại ngàn rừng Tây Nguyên hoang dã cuốn hút. Một chiều ngắm những bức tượng nhà mồ đặt đúng không gian của nó, tôi lặng điếng trước nỗi cô đơn, u hoài, xa xăm đến đau đớn của họ. Tôi tìm đến với người tạc tượng, hồi đó ông chưa là già làng, say sưa đẽo khuôn hình cho những linh hồn nương náu. Tôi theo học, rồi thật ngẫu nhiên phải thực hiện tác phẩm đầu tiên là người vợ quá cố của già Pia. “Tao run tay không tạc nổi” - ông nói vậy và giao cho tôi một khúc gỗ. Bây giờ nó vẫn còn ngoài mồ, với vệt mòn năm tháng, đen xỉn. Từ đó già Pia phó thác cho tôi việc này. Khách du lịch mê man chụp hình quay phim, hỏi liệu có thể mua một bức tượng. Tôi lắc đầu, tượng chỉ đẽo khi người ta về cõi khác. Rồi khu nhà mồ trở thành điểm tham quan... Tôi và nàng đã hẹn gặp nhau ở đó sau hơn chục năm biền biệt. Đêm trăng mờ nhòa, lấp ló những khuôn mặt nhà mồ không sửa hướng nhìn mãi mãi. Chúng tôi ngồi trên một phiến đá cổ từ bao đời nay.
Trăng vẫn sáng vào những ngày đông. Mảnh trăng khô ẩn hiện sau lớp mây xám nhiều khi bất ngờ vụt sáng. Rồi một đêm mưa ồ ạt. Tôi thương những bức tượng nhà mồ trần truồng chống má giữa làn mưa không kịp vuốt mặt. Bước đến bên một người, chụp chiếc mũ mình đội hàng ngày lên đầu bà ta. Người đàn bà duy nhất trong bản không chồng. Lúc tôi ngụ cư ở bản bà trông còn khá mặn mà. Không chồng thì sao? Tôi muốn biết cảm giác của bà vào những đêm trăng non nhú mầm nhưng nhức. Nàng đến trước tôi, nương mình bên ngôi nhà mồ co ro tội nghiệp. Không thể ôm nàng giữa rất nhiều đôi mắt đang nhìn. Tôi sợ, những ánh nhìn không soi mói, chỉ có nỗi buồn toát hơi lạnh. Những bức tượng chính tay tôi tạc càng tủi phận, đôi mắt hoang dại như không tin nổi số phận đứt ngang dưới mây trời. Nàng ngước mặt muốn nhận một cú sét xé tan đời mình cho vơi nỗi hận.
“Anh nhìn đi. Vóc dáng này, làn da này, bộ quần áo này, giọng nói này... em đã trở thành người của núi rừng, của bản này rồi. Sống theo chồng chết cũng theo chồng. Già Pia bảo xưa nay trong bản chưa hề có một cặp vợ chồng bỏ nhau. Làm ma cũng là vợ chồng mãi mãi. Anh lên đây làm gì. Chỗ này có gì cuốn hút anh sao ở mãi. Anh không lên đây có phải em đã an phận rồi không. Tất cả chấm dứt lâu lắm rồi. Bao nhiêu năm lưu lạc chốn này em không hề một lần nhớ về anh. Không một lần. Anh đưa hết những bức tượng đã tạc về dưới xuôi đi. Buồn lắm. Não lắm. Nhìn đi. Đâu phải ai từ giã cõi đời cũng buồn rũ rục như anh miêu tả”.
Tôi nhìn quanh khu nhà mồ. Những bức tượng dõi mắt về nhiều hướng nhưng đều một nỗi u hoài. Vợ già Pia, kia là đứa trẻ bị rắn độc cắn; rất nhiều nữa khuôn mặt tôi gần như quên họ. Không một bức tượng bị đánh cắp, không một bức tượng nào gãy đổ ngoại trừ thánh thần và giông tố muốn hủy hoại. Ánh chớp lóe lên soi những vết thương qua mưa nắng dãi dầu, những hốc mắt khô kiệt dòng lệ vẫn lóe hy vọng. Giữa thâm u huyền mặc của rừng, tôi cảm giác đang đứng trước sự phán xử của những đôi mắt suốt đời không ngủ. Nàng là chứng nhân duy nhất có thể cứu chuộc lỗi lầm của tôi lại vụt chạy trở về với ngôi nhà có tiếng khóc trẻ nhỏ.
Thất thểu rời khu mộ. Tôi không về nhà. Triền miên những đêm dài bấn loạn. Tôi không biết về đâu ngoài ngôi nhà của già Pia. Già vẫn lặng lẽ tiếp tôi với bát rượu nóng.
“Nhìn lên núi đi. - Già vừa hút thuốc vừa nói. - Bước về phía núi đi. Lở rồi. Mộ đấy. Núi là ngôi mộ lớn nhất của bản. Mộ sắp bị quật lên rồi”.
Tôi ngồi im, lại uống rượu. Lại nhìn khuôn mặt khắc khổ của già Pia, nhận diện thêm những nét khác biệt, ghi nhớ để sau này có thể tạc bức tượng nhà mồ lớn nhất bản.
Những đêm dài trùng lặp như một khuôn mẫu. Có lúc tôi muốn thôi đến già Pia, phá tan cái không gian nhàm chán, thôi tạt qua ngôi nhà có tiếng trẻ ấy. Tại sao? Tôi muốn gầm lên như thú hoang. Rừng cũng tan hoang rồi già biết không. Già lên giữ rừng cho thú hoang sống đi. Rồi tôi đứng dậy, bất lực bước về con đường mòn của những đêm trước. Tiếng trẻ ít khóc hơn trong ngôi nhà còn tiềm tàng âm khí. Người con gái tôi từng nhầm là nàng đã thay nàng nuôi đứa trẻ bằng dòng sữa trong veo của mình. Chồng nàng hút thuốc nhiều hơn, thức khuya hơn. Và đêm nay, biết nói sao khi tôi thấy hai con người nhập lại một khối, đau quặn! Tôi muốn đâm mù đôi mắt nàng để tất cả không hiện diện. Còn tôi vĩnh viễn không được phép công nhận đó là sự thật. Là ảo ảnh bởi men say, bởi thần kinh rối loạn qua nhiều đêm mất ngủ vì ác mộng.
Tôi về hạ cây mít sau hồi nhà, vốn để dành đẽo bức tượng nhà mồ cho già Pia. Tôi nhớ về nàng. Như con thú trúng thương không cách gì chữa khỏi, tôi đã náu mình trong hang lạnh và vết thương ngày một ăn sâu. Thật lầm đường lạc lối khi ngụ cư ở vùng đất nắng gió khô rốc. Có nhắm mắt tôi vẫn đẽo ra bức tượng nhà mồ như thường. Tay nghề tôi thậm chí vượt già Pia. Tôi nhớ đến nàng qua nhiều hình ảnh dưới trăng ở khu nhà mồ của bản. Chưa bao giờ có một nụ cười. Nàng đẹp nhờ năng lượng nỗi buồn. Tôi lại chưa từng soi khuôn mặt mình trong gương từ lúc đến với bản. Tôi chỉ soi mình vào nỗi khiếp sợ cái chết hiện trên những tượng nhà mồ. Bằng tất cả huyết máu và ngón nghề tinh diệu, tôi bắt đầu đẽo tác phẩm quan trọng nhất trong đời. Dẫu máu tứa đầy tay cũng nhất khoát kết thúc trước bình minh. Bức tượng nhà mồ cuối cùng. Tôi sẽ đi khỏi vùng đất này, lãng quên nó như chưa bao giờ đặt chân đến.
Đêm lụi dần. Tôi không ngắm lại bức tượng, không làm nguội nó chỉnh chu hơn mà giữ lại nét thô mộc khắc khổ. Tôi vác bức tượng ra ngôi mộ của nàng. Trăng không còn. Ngọn núi qua ánh chớp thấy rõ hơn vệt đất đỏ chảy loang. Sẽ một ngày núi biến mất. Ánh trăng rọi vào khuôn mặt nàng suốt những đêm thu ướt lạnh. Tôi đặt bức tượng dưới chân nhà mồ. Bây giờ chắc nàng đã hiểu: nàng thực sự yêu tôi. Nàng thực sự khờ khạo giữa đại ngàn thâm hiểm. Tôi quỵ gục dưới chân nàng. Bức tượng xong rồi nàng biết không. Hãy nhập vào cho máu thịt thỏa thuê cơn khát. Rồi hãy đục khoét bức tượng như loài mọt nghiền trong từng thớ gỗ.
Tôi gượng dậy lùi ra ngắm lại bức tượng của chính mình… Hắn nhìn tôi xa lạ. Ngôi nhà mồ nhuốm lạnh. Vĩnh biệt con thú ngoan bé bỏng. Hành trang tôi cõng trên vai: Khúc gỗ đẽo dở dang chân dung nàng đã lau khô vết máu.
H.T.L
(SH310/12-14)
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.