Nghệ thuật tạo hình thời Mạc: Vẻ đẹp của hình khối

09:24 10/08/2015

Trong nền nghệ thuật Việt Nam, nghệ thuật thời Mạc (1527 - 1592) chiếm một vị thế rất riêng, có phong cách khác hẳn với tính nhịp điệu truyền thống của sáng tạo Việt Nam trước và sau đó.

Tượng Quan âm chùa Bối Khê (Thanh Oai, Hà Tây, Hà Nội), TK 16, điêu khắc gỗ phủ sơn. Nguồn ảnh tư liệu: sách Điêu khắc cổ VN, ảnh gốc: Phan Cẩm Thượng.

Nghệ thuật thời Mạc, cách đây gần 500 năm, nổi lên với phong cách tạo hình súc tích, có tính module, có sự đơn giản và quy về khối cơ bản, khiến người ta không khỏi ngạc nhiên về xúc cảm gần gũi với design công nghiệp hiện đại. Gọi là nghệ thuật thời Mạc, là vì những tác phẩm có niên đại thuộc về thế kỷ 16, trùng với triều đại nhà Mạc, nhưng cái phong cách nghệ thuật đó có thể xuất hiện ngay từ cuối thời Lê Sơ, thế kỷ 15, và tùy từng địa phương, phong cách đó vẫn kéo dài sang đầu thế kỷ 17, khi nhà Mạc không còn nữa. Lịch sử nghệ thuật sinh ra bởi thời đại của nó, nhưng không nhất thiết chồng khít lên thời đại đó, nó có tuyến tính lịch sử phát triển riêng, phụ thuộc vào cơ cấu nghệ thuật, có thể là phi chính trị.

Một cục diện lịch sử đặc biệt

Sau khi chiến thắng quân Minh, năm 1427, giành độc lập dân tộc, Lê Lợi xây dựng triều đại nhà Lê Sơ, lấy Nho giáo làm tư tưởng thống trị thời đại và tổ chức xã hội. Bản thân Lê Lợi cũng là một địa chủ, nên việc phát triển làng xã và quan hệ địa chủ - nông dân là đương nhiên, thay cho chế độ điền trang thái ấp với quý tộc - nông nô thời Trần (1226 - 1400). Cái làng xã này sẽ được định hình và phát triển như tế bào căn bản của xã hội Việt Nam, nhất là về mặt phong tục tập quán và sản xuất nông nghiệp vào thời Mạc.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung, người nắm gần hết quyền lực trong triều đình Lê Sơ, nhất là về quân đội, đã tiến hành đảo chính, giết vua Lê, lập ra nhà Mạc. Những quý tộc Trịnh Nguyễn, chủ yếu ban đầu từ Nguyễn Kim và người con rể của ông là Trịnh Kiểm, đã tìm con cháu vua Lê, phò tá (tượng trưng) dấy binh từ Thanh Hóa, đánh lại nhà Mạc. Nguyễn Kim bị đầu độc chết, Trịnh Kiểm nắm toàn bộ binh quyền. Sau khi bình định nhà Mạc, năm 1592, họ Trịnh thiết lập chế độ vua Lê, chúa Trịnh, trong đó vua Lê chỉ là bù nhìn, toàn bộ quyền lực xã hội nằm trong tay chúa Trịnh. Tình hình trên khiến Việt Nam trong thế kỷ 16, 17 xảy ra hai cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến Nam - Bắc triều, giữa nhà Mạc (Bắc triều) và vua Lê, cùng phe Trịnh Nguyễn (Nam triều), và cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh, sau khi con trai Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng xin được vào Nam trấn thủ, thoát khỏi gươm đao họ Trịnh. Mặc dù nội chiến kéo đến hai trăm năm, nhưng làng xã vẫn phát triển, và đất nước được mở rộng liên tục về phía Nam do cuộc viễn chinh và lấn chiếm của nhà Nguyễn đối với các tiểu vương quốc Champa và các sắc tộc đồng bằng Nam bộ. Người phương Tây cũng bắt đầu vào Việt Nam thăm dò từ thế kỷ 16, và buôn bán từ thế kỷ 17. Đây là một cục diện đặc biệt, cho thấy những vấn đề chính trị, xã hội cốt yếu đã hình thành trong thế kỷ 16 như thế nào.

Điểm mặt di sản

Trong suốt một thời gian dài, khoa nghiên cứu mỹ thuật truyền thống đã xác định một số di tích thời nhà Mạc theo đoán nhận phong cách và văn bia, hoặc văn tự xác nhận niên đại. Di sản này chủ yếu bao gồm: sáu ngôi đình - đình Tây Đằng, đình Tường Phiêu (?), đình Thanh Lũng (?) (vùng Sơn Tây, Hà Tây cũ); đình Lỗ Hạnh, đình Phù Lưu và Thổ Hà (Kinh Bắc cũ); hai ngôi chùa - chùa Cói (Vĩnh Phú), chùa Trà Phương (Hải Phòng); và những di tích điêu khắc Phật giáo khác cùng đồ gốm Chu Đậu.

Về niên đại, cụ thể như sau: trên đình Lỗ Hạnh (Đông Lỗ, Hiệp Hòa, Bắc Giang) có ghi: “Đệ nhất Kinh Bắc… Sùng Khang… niên chính nguyệt” (1566 - 1577) và “Tuế thứ bình tý mạnh xuân tân tạo” (1576). Trên bức tượng bà Hoàng hậu chùa Trà Phương có đề: “Trung Nguyên Tân hợi sơ nhất nhật tạo tượng” và “Phúc Huyền chỉ phụng hành” [“Ngày 1 tháng 4 âm lịch năm Tân hợi (1551) ở Trung Nguyên tạc tượng, Phúc Huyền vâng chỉ làm”]. Bệ tượng Phật chùa Mễ Sở (Hưng Yên) ghi: “Diên Thành sơ niên” (1578). Tượng Quan âm Nam Hải chùa Phẩm (Đông Ngọ tự, Hải Dương) ghi: “Tân tạo Phật tượng, Nhất hội chủ, Tỳ khưu tự Chân Minh…(và nhiều người khác kê tên)… Diên Thành tuế thứ Nhâm ngọ ngũ niên, thập nhị nguyệt cốc nhật tạo” [“ Tỳ khưu tự Chân Minh đứng hội chủ, cùng một số tín chủ… vào ngày tốt, tháng 12 âm lịch năm Nhâm ngọ (1582) thuê người làm tượng này”].

Một số đồ gốm cũng có niên đại và tên người làm hoặc người cúng tiền. Còn hầu hết các di tích khác, được cho là sản phẩm của thời Mạc, là đoán định theo phong cách và những tương quan nghệ thuật, xã hội. Đứng về mặt khảo cổ học lịch sử nghệ thuật, điều này cần nghiên cứu thêm. Đây là một vấn đề lớn - việc nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Việt Nam trong quá khứ rất thiếu tính khoa học, nhiều cảm tính, khi thời gian qua đi, hầu như người ta không muốn lục lại vấn đề nữa, mà cứ đương nhiên coi di tích này thuộc về thời đại này, thế kỷ kia. Rất may, riêng nghệ thuật thời Mạc, có rất nhiều chứng cứ ghi niên đại như trên. Những mảnh vụn khác cho thấy sự gần gũi về phong cách và tính chất cổ kính của di sản có thể chấp nhận được là thuộc về thời Mạc.

Vào những năm 1980, nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền đã đưa ra hiện tượng Quan âm thời Mạc. Ông nhận định rằng thời kỳ này xuất hiện rất nhiều các pho tượng Quan âm Nam Hải, Quan âm Chuẩn đề và nhiều loại tượng Quan âm khác. Ông cũng cho rằng đây là thời kỳ nhiễu loạn do nội chiến, lòng người bất an, xã hội nhiều khi lâm vào đói kém, nên người ta cầu đến hình tượng Phật bà Quan âm có năng lực cứu độ chúng sinh, và rồi đỉnh cao của sự sùng bái hiện tượng Quan âm trong thế kỷ sau (17) là tượng Phật bà Quan âm Nghìn mắt nghìn tay, như Quan âm chùa Bút Tháp (1656). Trần Lâm Biền dẫn ra một số pho tượng Quan âm cụ thể như: Quan âm Nam Hải chùa Hạ (Vĩnh Phú), Quan âm chùa Bối Khê (Thanh Oai, Hà Tây cũ), Quan âm chùa Hun (Côn Sơn, Hải Dương), Quan âm chùa Phẩm nói trên…

Đặc điểm thẩm mỹ


 
Thẩm mỹ hình học thời nhà Mạc cho thấy sự giản đơn, súc tích gắn liền và sinh ra từ cảm thức của
người nông dân. Ảnh trái: Bà Hoàng hậu Trà Phương, chùa Trà Phương, Hải Phòng - tượng đá tô màu,
thế kỷ 16. Ảnh tư liệu: Nguyễn Anh Tuấn.  Ảnh phải: Tượng vua Mạc Đôn Nhượng,
chùa Nhân Trai, Hải Phòng - tượng đá tô màu, thế kỷ 16. Ảnh tư liệu: Nguyễn Anh Tuấn.


Nếu nhìn thoáng qua, cách thức tạc tượng thời Mạc rất thô phác, từng phần được quy vào khối riêng biệt và lắp ráp thành pho tượng, như Quan âm chùa Hạ, chia rõ thành các phần: đầu, mình, chân, bệ tòa sen, bệ đỡ hình hộp, hai pho tượng nhỏ Kim đồng, Ngọc nữ gắn rời, khối 42 tay chia đều cho hai bên thân cũng gắn theo trục thân. Sự chuyển khối rất đột ngột, các đường cong cơ thể không được chú trọng, mà các phần khối dường như được đẽo vuông vức có tính hình học cao, lắp ghép vào nhau.

Cái đặc điểm thẩm mỹ hình học này phổ biến trong chạm khắc trang trí đình làng thời Mạc, tượng chân dung thờ vua, hoàng hậu và các bà chúa, các bệ tượng Phật, các chân đèn thờ bằng gốm… tất cả được quy khối, có thể tháo lắp thành từng phần riêng biệt. Phương pháp này về sau ảnh hưởng đến toàn bộ điêu khắc gỗ và đất phủ sơn ở Việt Nam, theo cách làm từng phần rời và lắp ráp, tuy nhiên xu hướng khối hình học chỉ thịnh hành trong thời Mạc mà thôi. Thời Lý và Trần, nghệ thuật luôn ở các trung tâm lớn, phong cách nghệ thuật mang tính phổ quát, tất cả di tích trong nước thống nhất một cách thức sáng tác và thẩm mỹ, không có phong cách địa phương. Thời nhà Mạc, làng xã đã hưng thịnh, nghệ thuật không còn bị độc quyền bởi Phật giáo nhà nước như thời Lý Trần, mà phụ thuộc vào yêu cầu tín ngưỡng cũng như khả năng kinh tế của từng làng. Phong cách địa phương xuất hiện, mỗi nơi, mỗi chùa một cách thức, duy chỉ có thẩm mỹ hình học là mang tính phổ quát, cho thấy sự giản đơn, súc tích gắn liền và sinh ra từ cảm thức của người nông dân. Ngay cả những chân dung vua nhà Mạc và hoàng hậu chùa Trà Phương cũng không nằm ngoài phong cách này, chúng cho thấy triều đình nhà Mạc xuất thân hoàn toàn từ nông dân, ưa chuộng ăn mặc ở kiểu nông dân dù họ đã làm vua chúa.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đỗ Cung, khi nghiên cứu chạm khắc trang trí đình làng Việt Nam, đặc biệt là đình Tây Đằng, ông nhận thấy có ba kỹ thuật chạm khắc phổ biến: chạm nông, chạm bong và chạm loọng. Ông và nhiều nhà nghiên cứu cho rằng phần nào ba kỹ thuật này tương ứng với ba thế kỷ phát triển của đình làng từ thế kỷ 16, 17, 18. Đình Tây Đằng và chùa Cói có những bức chạm nông - chạm khắc trên mặt phẳng tấm gỗ, với độ cao của phù điêu vừa phải, không xuyên thủng hay có lớp bên trong. Tuy nhiên chúng tôi thấy chạm khắc trang trí kiến trúc phụ thuộc vào những thành phần chịu lực hay không, ở nơi chịu lực đỡ nhiều thì chỉ có thể chạm nông, ở nơi ít hoặc không chịu lực thì mới có thể chạm bong và chạm loọng. Thế kỷ 17, đỉnh cao của điêu khắc và kiến trúc đình làng, kỹ thuật chạm bong nhiều lớp rất phổ biến, tất nhiên phát triển từ cách thức chạm khắc đơn giản thời Mạc.

Mặc dù khái niệm design, thẩm mỹ công nghiệp mới có từ những năm 1960 trở lại đây, nhưng khoa thiết kế của con người có từ thời cổ xưa, gắn liền với chế tác đồ dùng và đồ thờ. Những triều đại phong kiến có xu hướng định thể chế văn hóa và vĩnh cửu hóa đều có ý thức sâu sắc đối với những công trình để đời. Đền đài, cung thất và đồ dùng của họ được thiết kế cẩn thận sao cho mang một phong cách triều đại riêng biệt, vừa gắn với quá khứ truyền thống, vừa đưa ra kiểu thức mới. Con rồng yên ngựa (hình con rồng có lưng rộng và võng như yên ngựa) thời Mạc là một cách thức biểu tượng của triều đại xuất thân từ nông dân này. Có thể nói khoa tạo dáng thời Mạc rất thành công trong việc tạo ấn tượng thị giác, nó kế thừa tính thô mộc, mạnh mẽ của nghệ thuật thời Trần, sự giản dị và dân gian thời Lê Sơ, để định ra một kiểu thức riêng cho mình và triều đại phong kiến nhà Mạc.

Tất nhiên tính thô phác và thẩm mỹ công nghiệp là hoàn toàn khác nhau. Con người ngày nay không tài nào thô phác như con người ngày xưa. Thế kỷ 16 kém thô phác hơn thế kỷ 15, thế kỷ 15 kém thô phác hơn thế kỷ 14, cứ thế càng tiến tới hiện đại, sự tinh khéo càng tăng lên, nhưng cái bản chất chân thật càng phai nhạt và xa hơn với bản chất nhân văn của con người. Nên có nhà lịch sử, mà tôi không nhớ được tên, đã nói: Càng phát triển con người càng khó khăn hơn trong việc đục thủng những tầng văn minh đã qua, để quay lại với hạt nhân nguyên thủy.

Ngu
ồn: Phan Cẩm Thượng - Tia Sáng

 


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Gần nửa giờ lái xe từ thủ đô Kabul, tỉnh Logar, phía đông nam thủ đô Kabul, được coi là một trong những nơi nguy hiểm nhất ở Afghanistan. Nó gần khu vực Waziristan biến động của Pakistan, nơi các chiến binh vũ trang tự do qua lại nơi biên giới.

  • Trong ba lần khai quật (các năm 1993, 2009 và năm 2013) tại khu Di tích lịch sử-văn hóa-khảo cổ đặc biệt Gò Tháp thuộc xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, Bảo tàng tỉnh Đồng Tháp đã thu được 49 hiện vật bằng vàng của nền văn hóa Óc Eo.

  • VÕ VINH QUANG

    An Nam quốc thư là hệ thống văn thư ngoại giao rất quan trọng giữa nước ta và Nhật Bản thế kỷ XVI - XVII, thường xuyên được giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.

  • HỒ TẤN PHAN - NGUYỄN THỊ NHƯ TRANG

    Chúng tôi đọc một cách thú vị bài "Lại nói chuyện cầu Trường Tiền" của Quách Tấn đăng trên Tạp chí Sông Hương số 23.

  • (SHO) Bộ VHTTDL vừa ban hành Quyết định cho phép Sở VHTTDL tỉnh Thanh Hóa phối hợp với Viện Khảo cổ học khai quật tại Hang Diêm, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa trong thời gian từ 21/11 - 02/12/2013 trên diện tích là 20m2.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Giữa lúc các nhà nghiên cứu sử học đang sôi nổi, tranh biện về cuộc tìm kiếm di tích lăng mộ Quang Trung nhưng vẫn chưa tìm ra bằng chứng xác thật thì bất ngờ trên Tạp chí Xưa & Nay năm 2005(1), hai nhà nghiên cứu Hồng Phi và Hương Nao đã phát hiện và công bố một bài thơ chữ Hán Kiến Quang Trung linh cữu được chép trong Nam hành tạp vịnh tập 2 của bản chép tay Liên Khê di tập do danh sĩ Thanh Hóa là Lê Ôn Phủ(2), hiệu là Liên Khê (1771 - 1846) trước tác.

  • HỒ TRUNG TÚ

    Trong lịch sử mối quan hệ Việt Chăm có một thời kỳ vô cùng đặc biệt, đó là giai đoạn cùng nhau hợp tác chống lại quân Nguyên Mông.

  • HỒ VĨNH

    Mới đây trong quá trình sưu tầm tư liệu Hán Nôm tại Cố đô Huế, chúng tôi tìm thấy một bản thảo chữ Hán viết dưới đời vua Bảo Đại.

  • KHẮC DŨNG

    Việc ông Đăng Thanh (86, Hoàng Diệu, Đà Lạt, Lâm Đồng) “tuyên bố” mua được một tấm xà rông của vua Chăm khiến chúng tôi phải “vào cuộc” truy tìm nguồn gốc của món hiện vật này. Cũng nói thêm, ông Đăng Thanh là hội viên CLB UNESCO Nghiên cứu bảo tồn cổ vật Việt Nam tỉnh Lâm Đồng (Club for antique research and collection in Lam Dong), một trong những người chơi đồ cổ khá nổi tiếng ở Lâm Đồng. Từ tấm xà rông mà ông Thanh cho rằng “của hoàng tộc Chăm”, chúng tôi về xã Pró (huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng) để tiếp cận với một số gia đình, dòng họ có quan hệ với “vua Chàm” xưa kia.

  • LTS: Theo thông báo của Hội đồng chung khảo Giải Báo chí Quốc gia 2012, phim tài liệu “Ký ức Hoàng Sa” của nhà báo Bảo Hân - Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Huế, cộng tác viên của Tạp chí Sông Hương - là tác phẩm báo chí duy nhất của Thừa Thiên Huế được Giải Báo chí Quốc gia trong năm nay. Sông Hương xin giới thiệu nội dung kịch bản của phim tài liệu này và chúc mừng tác giả được giải.

  • LÊ QUANG THÁI

    Trong 12 con giáp giữ vai trò "hành khiển" điều hành vòng quay ngày tháng, con rồng là linh vật khác hẳn với 11 loài còn lại mang tính cách hiện thực rõ nét.

  • ĐẶNG TIẾN

    Rồng là một linh vật tưởng tượng, chỉ có trong huyền thoại hay truyền thuyết, nhưng lại là một hình ảnh quen thuộc trong tâm thức người Việt Nam.

  • PHAN THUẬN ANTrong suốt nửa đầu thế kỷ 19, nhất là vào đầu thời Gia Long (1802 - 1820), nhà Nguyễn đã cố tình giết sạch, đốt sạch, xóa sạch tất cả con người, di tích, sách vở và mọi thứ khác của nhà Tây Sơn.

  • NGUYỄN THẾPhong Điền là huyện nằm ở phía bắc của tỉnh Thừa Thiên Huế, vùng đất mang nhiều dấu ấn lịch sử văn hóa của các thời kỳ. Sự kiện đáng ghi nhận gần đây là việc tìm thấy trống đồng cổ Đông Sơn có niên đại từ thế kỷ 2- 1 trước công nguyên, di tích văn hóa Chăm Pa, văn hóa Việt cổ... đã tạo sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu lịch sử trong và ngoài nước.

  • HỒ VĨNHMới đây trong đợt khảo sát thực địa tại vùng đồi núi thuộc thôn Trường Đá, xã Thủy Biều, thành phố Huế, chúng tôi đã tìm thấy một tấm bia cổ nằm bên ngoài Khiêm lăng (lăng Tự Đức) khoảng 1 km về phía Tây Bắc.

  • PHAN THANH HẢITrong ca dao xứ Huế, hình ảnh chiếc giếng cổ từ lâu lắm đã đi vào chuyện tình yêu đôi lứa, trở thành biểu tượng để người ta đem làm vật nguyện thề:Nước giếng Hàm Long đã trong lại ngọtAnh thương em rày có Bụt chứng tri

  • VŨ QUỐC HIỀNQuần thể kiến trúc Cố đô Huế là một di sản văn hoá có giá trị to lớn của Thừa Thiên Huế nói riêng và của Việt Nam nói chung. Giá trị di tích đó thể hiện ở cả văn hoá vật thể và phi vật thể mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể nhận biết được.

  • NGUYỄN TUẤN LÂMSông Hương - một bộ phận cấu thành của văn hoá Huế đã và đang chứng kiến những bước thăng trầm của Cố đô Huế xưa cũng như đời sống hàng ngày của xứ Huế hiện nay. Dòng sông thơ mộng, ngọt ngào này chắc chắn đang nắm giữ nhiều bí ẩn của vùng đất lịch sử này mà nếu khai thác những bí ẩn đó có thể là những bổ sung quan trọng cho kho tàng lịch sử, văn hoá Huế.

  • PHAN THANH HẢIVới chủ đề “320 năm Phú Xuân - Huế, nghề truyền thống – bản sắc và phát triển”, Festival nghề truyền thống Huế 2007 sẽ diễn ra từ ngày 8-6 đến 10-6-2007, tập trung vào các nghề chạm khắc, đúc đồng và kim hoàn ở Huế và khắp đất nước.Sông Hương góp thêm một tiếng nói để tôn vinh nghề đúc đồng của Huế thông qua việc trình bày và đánh giá một số cổ vật đồng tiêu biểu của thời kỳ trước Phú Xuân hiện còn được lưu giữ để giúp bạn đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về lịch sử phát triển và những thành tựu của nghề đúc đồng xứ Huế.

  • NGUYÊN ĐẠTNhân trở lại chùa Thiên Mụ, thăm lại những chuông cổ, tượng cổ, khánh cổ... Chúng tôi thấy trên chiếc khánh đồng có ghi: "Khánh đúc năm 1674 do Jean de la Croix người Bồ Đào Nha đúc". Chúng tôi phân vân, sao không đề ở tất cả chuông tượng ở đây mà chỉ đề ở một chiếc khánh có hoa văn kiểu dáng Việt lại người Âu đúc?