PHONG LÊ
Bốn tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình, 25 triệu người dân Việt Nam bước vào năm 1946, năm mở đầu kỷ nguyên Dân chủ - Cộng hòa, bằng một sự kiện vang động lịch sử: Cuộc bầu cử Quốc hội khóa I, cơ quan lập pháp cao nhất của đất nước, vào ngày 6/1/1946.
Ảnh tư liệu
Đó là ngày “Hội non sông” - nói như nhà thơ Xuân Diệu. Đầu năm là thế. Còn cuối năm là tiếng súng Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, vào ngày 19/12/1946, mở đầu một cuộc trường chinh gian khổ của dân tộc suốt hơn 30 năm sau.
Một năm với dồn dập các sự kiện lớn, đánh dấu những chuyển động chưa từng diễn ra trong lịch sử. Đó là sự kiến lập nền Dân chủ - Cộng hòa, và sự chèo chống con thuyền cách mạng vượt qua bao ghềnh thác để giữ cho được chủ quyền độc lập, dưới sự lãnh đạo anh minh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, lúc này đã mang tên Hồ Chí Minh.
Ý nghĩa của lá phiếu do mỗi người dân tự ghi và tự bỏ vào thùng phiếu được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bức thư gửi toàn dân, ngày 5/1/1946:
“Ngày mai, là một ngày nó đưa quốc dân ta lên con đường mới mẻ.
Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình.
Ngày mai dân ta sẽ tỏ cho các chiến sĩ ở miền Nam rằng: Về mặt trận quân sự thì các chiến sĩ dùng súng đạn mà chống quân thù; về mặt chính trị thì nhân dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu có sức lực một viên đạn”(1).
Lúc này Nam Bộ đã bị Pháp trở lại xâm lược, từ 23/9/1945. Thế nhưng việc bầu cử vẫn thực hiện thành công, với hơn 90% tổng số cử tri đi bỏ phiếu, để có 403 đại biểu, trong đó 333 đại biểu được bầu, và 70 đại biểu được Chính phủ liên hiệp mời tham gia, không qua bỏ phiếu (gồm 50 người thuộc Việt Nam Quốc dân đảng và 20 người thuộc Việt Nam Cách mạng đồng minh hội); trong đó công nông binh chiếm 87%, với 10 đại biểu là phụ nữ; và Hồ Chí Minh đạt số phiếu cao nhất - 98,4%. Từ Quốc hội, bầu ra Chính phủ chính thức thay cho Chính phủ liên hiệp lâm thời được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào bầu trước ngày Tổng khởi nghĩa.
Trở lại năm 1946 - đó là năm dân tộc đứng trước những nhiệm vụ cực kỳ khẩn thiết: vừa phải giành và giữ cho được chủ quyền dân tộc trong một tình thế vô cùng phức tạp về chính trị; đồng thời là nhiệm vụ kiến thiết để hồi sinh và xây dựng đất nước, sau nạn đói 1945; và xây dựng ý thức công dân sau hơn 80 năm dưới ách nô lệ. Tất cả được Chủ tịch Hồ Chí Minh thâu tóm trong ba nhiệm vụ: chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Cả ba đều quyết liệt, nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải sắp xếp theo trật tự như trên. Giặc đói - sau trận đói lịch sử 2 triệu người chết đầu 1945. Giặc dốt - 95% số dân mù chữ. Và giặc ngoại xâm, khi chủ quyền dân tộc đang bị uy hiếp nghiêm trọng bởi thù trong, giặc ngoài. Thù trong - nhiều đảng phái chính trị lăm le tranh giành quyền lợi. Giặc ngoài - cả giặc Tưởng và giặc Pháp nấp bóng Đồng minh. Cả ba, phải được ứng phó bởi một trí tuệ sáng suốt và tỉnh táo. Nạn đói dần dần được khắc phục nhờ vào phong trào Tăng gia sản xuất, Tấc đất tấc vàng, Hũ gạo tiết kiệm, và những bức thư kêu gọi nhà nông. Giặc dốt được thanh toán bởi phong trào Bình dân học vụ, cuốn hút mọi tầng lớp trí thức tham gia. Và ngoại xâm, bằng những đối sách rất linh hoạt, qua Hiệp ước sơ bộ 6/3, Tạm ước 14/9, cùng với chuyến đi Pháp 4 tháng, trong tư cách thượng khách của Chính phủ Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một năm - nhà cách mạng, vị lãnh tụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa dân tộc vượt lên mọi khó khăn, thử thách, bởi chính Người là hiện thân tuyệt vời nhất cho lòng yêu nước và khối đoàn kết toàn dân, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, và giai cấp… Một khát vọng, một ý chí, một tầm vóc, một bản lĩnh gần như được đúc kết trọn vẹn trong bài Trả lời các nhà báo, chỉ 141 chữ, vào tháng 1/1946:
“Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng làm, cũng như một người lính vâng mệnh quốc dân ra trước mặt trận.
Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, để câu cá, trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em nhỏ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”.
Năm 1946 cũng ghi dấu một sự kiện riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - năm xác định ngày sinh nhật là 19 tháng 5. Do có sự xác định ấy, nên không tránh khỏi có những cuộc “chúc thọ bất ngờ” của các đại diện cho mọi đoàn thể. Nói “bất ngờ”, vì hẳn là có một bí ẩn gì đó của tình thế khiến Bác phải công bố ngày sinh; và do công bố, nên phải tiếp khách, thế nhưng nội dung của tất cả các cuộc tiếp lại không phải là câu chuyện riêng của tuổi tác và sức khỏe.
“Anh chị em đến chúc thọ tôi phải không?
Đó là câu hỏi đầu tiên của Chủ tịch khi cụ vào phòng khách. Sau khi vui vẻ mời chúng tôi ngồi, cụ tiếp ngay:
- Cái ông nhà báo nào công bố ngày sinh của tôi thật đáng phạt. Trước hết tôi chưa thấy cái già là gì, ngoài 50 tuổi chưa gọi là già. Sau nữa, chúng ta đang ở thời kỳ công tác, chưa phải lúc cần đến hình thức lễ nghi như chúc thọ.
Thế là, rất nhanh chóng, câu chuyện giữa chủ và khách bỗng chuyển sang nội dung cuộc vận động Đời sống mới, và khẩu hiệu Cần, Kiệm, Liêm, Chính…”.(2)
Năm 1946 kết thúc bằng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến - 19/12/1946; sau bao vất vả tìm kiếm hòa bình, nhưng không thể, vì thực dân Pháp quyết thực hiện dã tâm xâm lược. Sau Tuyên ngôn độc lập - 2/9/1945, đây là văn kiện có ý nghĩa lịch sử lớn lao, kết tinh ý chí, nguyện vọng của dân tộc, qua một đại diện, rồi sẽ là linh hồn, là Tổng tư lệnh tối cao trong hai cuộc kháng chiến gối liền nhau, suốt 30 năm.
“… Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ (…).
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
Từ thời điểm này, chỉ sau hơn 10 ngày sẽ bắt đầu một năm mới, năm Đinh Hợi - 1947, năm thứ hai kỷ nguyên Dân chủ - Cộng hòa. Từ chiến khu Việt Bắc, cả dân tộc sẽ được nghe lời chúc Tết đầu tiên của vị Chủ tịch nước, trong một khổ thơ 8 câu 8 chữ “phơi phới như buồm căng thẳng gió” (Hoài Thanh):
Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông
Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
Tiến lên chiến sĩ! Tiến lên đồng bào!
Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi!
Thống nhất độc lập nhất định thành công!
Và từ đây, hàng năm, cho đến tận 1969, là năm Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cả dân tộc Việt sẽ có hạnh phúc trong tâm thế ngóng đợi để đón nghe thơ xuân chúc Tết của Bác Hồ.
P.L
(TCSH387/05-2021)
--------------------
(1) Tất cả các trích dẫn và số liệu trong bài này được rút từ Hồ Chí Minh. Tuyển tập; Tập I; Nxb. Sự thật; 1980.
(2) Bài của Chính Tâm (tức Nguyễn Huy Tưởng) trên Tạp chí Tiên phong; số 12 (1/6/1946).
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀN
Ngày 3/5/1916, trong khi bên trong Hoàng cung, nhà vua trẻ Duy Tân chuẩn bị xuất cung với những công việc và nghi thức hết sức khẩn trương, nghiêm trang và đầy bí mật, thì bên ngoài Hoàng cung, từ bốn phía, những đội nghĩa binh và các vị thủ lĩnh ở các tỉnh và các vùng lân cận Kinh đô Huế cũng đã bí mật tụ về ứng nghĩa.
Nằm sâu hút trong những cánh rừng bạt ngàn với các dãy núi đá cao ngất, nơi chỉ có gió, núi, thú hoang và những tán cây rừng, bản Hoo, thôn A Năm, xã Hồng Vân, huyện A Lưới (Thừa Thiên - Huế) là một thung lũng nằm dưới chân núi A Noong- một nơi gần như biệt lập, "lãng quên” trước phố thị A Lưới ồn ào, náo nhiệt.
LÊ QUANG THÁI
Người xưa chỉ dạy rõ về cách thức viết tiểu sử bằng câu nhớ đời chẳng quên: “Phàm xem nhân vật nên xem về tiểu sử, sẽ thấy nhân vật”(1). Đông phương và Tây phương đều coi trọng việc viết tiểu sử đúng phương pháp, hợp quy cách, nói cho dễ hiểu là viết và dịch tiểu sử theo đúng bài bản quy định của bộ môn này.
CHƯƠNG THÂU
Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ Tĩnh là một người công giáo yêu nước, thông hiểu nho học và là người tiếp thu văn hóa tiến bộ của phương tây sớm nhất ở nước ta.
NGUYỄN THỊ MINH THÁI
Đối thoại với nhà sử học Lê Văn Lan về chủ đề “sự đi đây đi đó”, nhất là sự xuất dương nước ngoài của người Việt, từ xã hội cổ truyền đến xã hội hiện đại, hai chúng tôi đồng thuận: một dân tộc nông dân, sự sống sự chết đều diễn ra trong khung cảnh làng Việt cổ truyền, cả đời lo làm ruộng,“chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa” như nông dân Việt, thì rất không muốn nay đây mai đó, chỉ thích yên phận sau lũy tre làng.
LÊ THỊ ÁNH TUYẾT
Hiếu học không chỉ thể hiện ở người học mà còn thể hiện ở vai trò của gia đình, mà trước hết là ở những người mẹ, người vợ, người bà, người chị, người em gái trong nhà.
(SHO). Từ 12h trưa nay, 11/10, các cơ quan, công sở bắt đầu treo cờ rủ, cả nước để tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cũng từ sau 12h hôm nay, nhiều kênh truyền hình đã thông báo tạm ngưng phát sóng cho đến chiều 13/10.
(SHO) - Ngày 04/9, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý môi trường du lịch, đảm bảo an ninh, an toàn cho khách du lịch.
TRƯƠNG SỸ HÙNG
Là một quan chức được nhà nước bổ nhiệm sau khi thi đỗ cử nhân năm 1876; lại trải qua nhiều địa vị xã hội khác nhau, Cao Xuân Dục đã đúc kết được nhiều thức nhận về việc học hành, thi cử và bước đầu thể hiện khá rõ những quan điểm giáo dục như: trọng thực học hơn là bằng cấp, tinh giản hay mở rộng kiến thức cơ bản về quốc sử cho Nho sinh tùy theo cấp học, tiếp thu vốn cổ văn hóa gia đình nhưng có chọn lọc và đổi mới. Thực học thì kiến thức dồi dào phong phú, khi nhập thế “chăn dân trị đời” theo quan niệm Nho giáo sẽ chủ động, sáng tạo linh hoạt trong thực tiễn, ít khi bị tác động ngoại cảnh.
LÊ VĂN HẢO
Thế kỷ XV - XVI ở nước ta, sau thắng lợi vĩ đại của khởi nghĩa Lam Sơn và của chiến tranh giải phóng dân tộc, đã bước vào một thời kỳ phục hưng mới của nền văn hóa Đại Việt.
HOÀNG MINH TIẾN
Nhắc đến các bậc danh nhân văn chương triều Nguyễn không ai không nhớ câu truyền tụng: "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường". Thế mà cả Tùng Thiện Vương và Cao Bá Quát đều rất quí trọng tài năng thơ Nguyễn Hàm Ninh(1).
…Trời chung không đội với thù Tây
Quyết trả ơn vua, nợ nước nầy.
Một mối ba giềng xin giữ chặt
Thân dù thác xuống rạng đài mây.
(Trần Cao Vân)
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Trước và sau ngày Việt Nam độc lập thống nhất (1975), tôi rất thích bài hát “Người mẹ Bàn Cờ” của Trần Long Ẩn trong Phong trào Đấu tranh đô thị miền Nam.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN Triều Nguyễn đã phạm một sai lầm với ngành sử học là đã tiêu hủy toàn bộ những sách vở, di tích, tư liệu có liên quan đến phong trào Tây Sơn, đặc biệt với người anh hùng dân tộc vĩ đại Nguyễn Huệ - Quang Trung.
VIỄN PHƯƠNG Kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ 27-7 Những gì hùng vĩ nhất khi ở lại với thời gian thì sẽ trở thành những dấu mốc tồn tại vĩnh hằng trong lịch sử. Tiểu đoàn 804 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình và tự đi vào lịch sử như một giá trị vĩnh cửu. Sứ mệnh lịch sử và sự hoàn thành nó của những chiến sĩ 804 sẽ hiện hữu vĩnh hằng với thời gian.
TRẦN ANH VINH(Kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9)Lịch sử đấu tranh kiên cường, bất khuất nhằm giải phóng khỏi ách đô hộ thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam thời kỳ cận - hiện đại, Phan Bội Châu là chiếc cầu nối.