Minh Khiêm đường một nhà hát độc đáo ở lăng Tự Đức

09:48 25/05/2022


PHAN THUẬN AN

Nhà hát cổ Minh Khiêm Đường - Ảnh: internet

Một điều gây ngạc nhiên và thú vị đối với các nhà nghiên cứu văn hóa nghệ thuật và các du khách nội địa cũng như quốc tế, nhất là đối với người phương Tây, là trong một khu lăng tẩm của Huế, chỗ chôn một ông vua đã chết, lại có một nhà hát để diễn tuồng cho vua xem, trình tấu ca múa và âm nhạc cho vua thưởng thức. Đó là nhà hát Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức. Nhà hát này là một công trình kiến trúc mang giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Nó là một trong những biểu hiện cụ thể nhất của chủ đề tư tưởng và triết lý kiến trúc lăng tẩm Huế: đây là cuộc sống của những người đã chết, và là nơi sống gửi thác về (sinh ký tử quy). Nhờ xây dựng theo tư tưởng chủ đạo ấy mà lăng lẩm các vua nhà Nguyễn được xếp vào kỳ quan của thế giới vào năm 1957 (Les merveilles du Monde, Hachette, Paris, trang 227).

Riêng lăng Tự Đức đã được xây dựng trong 3 năm, từ 1864 đến 1867, khi vua đang tại vị. Ở đó có khoảng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau, nhưng nhìn một cách khái quát, có thể phân chia mặt bằng kiến trúc ra làm hai khu vực: Lăng mộ ở bên trái và tẩm điện ở bên phải. Lúc sinh thời, nhà vua đã đặt tên cho khu vực tẩm điện ấy là Khiêm Cung mà cửa chính nó là Khiêm Cung Môn. Ngoài hệ thống Hoàng cung ở Đại Nội, Khiêm cung có thể được xem là hệ thống Hoàng cung thứ hai mà vua Tự Đức đã dùng để thỉnh thoảng lên đây nghỉ ngơi tiêu khiển. Thể chất nhà vua vốn bạc nhược, năng đau ốm, và tinh thần lại thường căng thẳng vì việc nhà lẫn việc nước. Một nhà nghiên cứu trước đây đã từng viết: "Trong lúc việc nước rối ren, tâm trí mệt mỏi, vua muốn có một nơi để thỉnh thoảng xa lánh cảnh triều nghi, lên đó đi dưỡng tinh thần" (Bửu Kế, Lăng Tự Đức, Tạp chí Đại học, Huế, số 31, tháng 2-1963, trang 130).

Trong khu vực giải trí đó của nhà vua, có khoảng vài chục công trình kiến trúc, bao gồm cung điện, nhà cửa, đình tạ, hồ, đảo... và đặc biệt nhất là nhà hát Minh Khiêm đường.

Nhà hát này được xây đựng vào đầu năm 1865. Trên tấm hoành phi bằng gỗ khá lớn được chạm trổ và sơn son thếp vàng, hiện nay còn treo tại chỗ (trong nhà hát), ngoài ba chữ lớn "Minh Khiêm đường" còn có một lạc khoản bên trái ghi rõ thời điểm xây dựng ấy: "Tự Đức thập nhất niên thập nhị nguyệt cát nhật tạo" (Xây dựng vào ngày tốt tháng 12 năm Tự Đức thứ 17), tức là tháng 1-1865.

Sau khi Khiêm Cung được xây dựng xong (1867), vua Tự Đức còn sống thêm 16 năm nữa (đến năm 1883) và thỉnh thoảng lên đây hưởng thú thanh nhàn, trong đó có cái thú xem biểu diễn nghệ thuật sân khấu, nhất là nghệ thuật hát bội, ở nhà hát Minh Khiêm đường.

Nhìn lại lịch sử sân khấu Việt Nam, bộ môn hát bội đã đạt đến chỗ cực thịnh dưới triều Nguyễn (1802-1945). Từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, triều đình Huế đã thành lập những đội ca, nhạc, múa, diễn tuồng càng ngày càng đông đảo và tổ chức có quy củ. Vua Gia Long đã cho dựng nhà hát Thông Minh Đường trong phạm vi Cung Diên Thọ để bà Hoàng Thái Hậu thưởng thức nghệ thuật sân khấu. Vua Minh Mạng cho xây Duyệt Thị Đường để vua cùng gia đình và triều đình đến coi diễn tuồng. Vua Thiệu Trị cho dựng thêm nhà hát Tịnh Quan Đường trong phạm vi Cung Khôn Thái dành cho vua và các bà nội cung xem hát. Vua Tự Đức cho xây Minh Khiêm Đường và Khiêm Cung như đã nói trên. Và vua Khải Định cho xây nhà hát Cửu Tư Đài theo lối tân kỳ tại cung An Định.

Hiện nay các nhà hát Thông Minh đường, Tịnh Quan đường và Cửu Tư Đài đều đã điêu tàn, mai một. Duyệt Thị Đường đã bị biến tướng từ khi dùng làm Trường Âm nhạc cách đây hơn 30 năm. Chỉ có Minh Khiêm đường là nhà hát còn được tương đối nguyên vẹn. Đó là một điều rất quý đối với các nhà nghiên cứu nghệ thuật sân khấu.

Nghệ thuật tuồng triều Nguyễn đã đạt đến đỉnh cao của nó dưới thời Tự Đức (1848-1883). Vua Tự Đức là một nhà văn hóa hơn là một nhà chính trị. Ông có kiến thức rộng về lịch sử, văn học và nghệ thuật. Bấy giờ, Huế là trung tâm nghệ thuật tuồng lớn nhất trong nước. Nhà vua đã cùng với các danh nho trong triều biên soạn, chỉnh lý tuồng hát và quy tụ được khoảng 300 đào kép hát về kinh đô để trổ tài diễn xuất. Nhà hát tuồng nổi tiếng nhất của Việt Nam trong mấy năm này là Đào Tấn, một vị quan dưới thời Tự Đức. Dưới thời ông vua mang tâm hồn nghệ sĩ này, kịch bản hát bội xuất hiện nhiều chưa từng thấy xưa nay, trong đó có những pho tuồng đồ sộ, như "Vạn bửu tường trình", "Quần phương hiến thụy", "Học lãm"... mỗi pho dài cả trăm hồi và diễn trong nhiều đêm.

Minh Khiêm đường cũng đã từng là nơi diễn các tuồng hát như thế để cho nhà vua thưởng thức. Đây cũng là nơi trình tấu ca múa và âm nhạc là những bộ môn mà nhà vua hâm mộ. Trong bài Khiêm Cung Ký, vua Tự Đức có viết: "Minh Khiêm đường bị lâm hạnh tấu nhạc dã" (Minh Khiêm đường được làm sẵn để khi vua lên chơi thì nghe trình tấu âm nhạc). Minh Khiêm đường liên quan đến sở trường, sở thích của vua Tự Đức đối với văn hóa nghệ thuật, và liên quan đến những hoạt động sôi nổi của các bộ môn văn nghệ trình diễn trên sân khấu đương thời. Nó là một di tích chứng minh hùng hồn nhất để thấy được sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật sân khấu thời bấy giờ.

Minh Khiêm đường lại là nhà hát có giá trị đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc, trong cách trang hoàng và trang trí.

Nằm trong phạm vi Khiêm Cung, bốn tòa nhà Hòa Khiêm Điện, Lương Khiêm Điện, Minh Khiêm đường và Ôn Khiêm đường tọa lạc ở bên cánh trái, nối liền hai chái thuộc hai mé ấy của hai ngôi điện vừa nối lại với nhau. Cũng như Ôn Khiêm đường nằm đối diện, Minh Khiêm đường là tòa nhà có 3 gian 2 chái và 2 hiên. Toàn bộ cấu trúc của tòa nhà nằm trên một mặt bằng hình chữ nhật dài 27,57m và rộng 18,15m. Nền cao 0,65m, mặt lát gạch bát tràng và quanh nền bó vĩa bằng đá thanh. Nền ở phần chái phía Lương Khiêm Điện xây cao hơn 0,20m so với nền của 3 gian và chái kia, vì đây là nơi đặt ngự tọa để vua ngồi xem. Hai mặt trước và sau của nền, trổ 5 hệ thống bậc cấp bằng đá thanh với thành bậc chạm trổ hình kỳ lân tạo thành những khối vân xoắn rất mềm mại và sinh động, gồm hai hệ thống bậc cấp ở phía sân và ba hệ thống phía vườn.

Cao khoảng 7m, toàn bộ giàn mái được chống đỡ bởi một hệ thống cột gỗ, gồm 6 hàng cột dọc và 8 hàng cột ngang, tổng cộng đáng lẽ là 48 cột, vì có hai cột ở gian giữa không dựng được với mục đích tạo ra sự rộng rãi cho mặt bằng sân khấu để khi trình diễn khỏi bị vướng. Các cột dựng trên chân đá tảng. Hệ thống kèo gồm 4 bộ, được cấu trúc theo kiểu vì kèo cánh ác mà đuôi các kèo được chạm trổ hình dây lá cách diệu. Các hoành, trến, và đặc biệt nhất là các pa-nô ở liên ba đố bản đều chạm trổ tỉ mỉ công phu với những mô-típ trang trí hình ảnh bát bửu, hồi văn chữ vạn và nhiều đường nét kỷ hà rất phong phú và đa dạng.

Đáng chú ý nhất về phần trang trí trong nhà hát này là ở trần nhà, mặt trần gỗ rộng khoảng 40m2 trải rộng khắp mặt bằng hai hàng cột giữa chạy suốt ba gian. Ở đó các nghệ nhân thời Tự Đức đã trang trí thành một bầu vũ trụ bao la, gồm có mặt trời (đường kính 0,30m), các đám mây trắng và các vì tinh tú. Khoảng 50 vì tinh tú được làm bằng khuy đồng bọc hạt thủy tinh ở giữa (đường kính lớn nhỏ khác nhau, từ 5cm đến 3cm). Sự thiết kế bầu vũ trụ như thế có tác dụng mỗi khi trong nhà hát thắp đèn để diễn thì các vì tinh tú sẽ phản chiếu ánh sáng lấp lánh từ nhiều góc tạo ra những màu sắc kỳ diệu, không gian của sân khấu trở nên sống động, làm cho con người cảm thấy mọi việc ở chung quanh mình như đang biến chuyển không ngừng. Chính nghệ thuật trang trí độc đáo này đã làm cho người diễn lẫn người xem có cảm giác những gì diễn ra trên sân khấu đều như đang diễn ra trên thực tế của cuộc đời dưới bấu trời tự nhiên. Thực là một cách trang trí đầy sáng tạo.

Chung quanh tòa nhà có xây tường gạch để bao che ba mặt của mỗi chái, trổ 7 cửa sổ song tiện ván lùa, và 3 cửa lớn để thông với các hướng. Ở hai mắt trước và sau của 3 gian giữa thì dựng hai hệ thống của buồng khoa lồng kính. Hệ thống tường vách xây bằng gạch quanh hai chái góp phần chịu lực cùng hệ thống cột trong việc giữ vững bộ giàn mái của tòa nhà.

Bộ mái Minh Khiêm đường được lợp bằng ngói ống thanh lưu ly. Bờ nóc bờ quyết đều trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng tráng men màu. Giữa bờ nóc được chắp hình bát quái bằng những thanh đồng tán lại thành hình tám cạnh. Ở hai đầu bờ nóc và cuối các bờ quyết là hình ảnh cành lá hóa rồng đắp bằng vôi vữa ghép sành sứ. Mỗi mặt đầu hồi được trang trí hình một cái khánh cách điệu ốp bằng gạch hoa đúc rỗng tráng men xanh.

Căn cứ vào cách trang hoàng, trang trí và vị thế của các bộ phận kiến trúc, chúng ta có thể chia mặt bằng của không gian nội thất Minh Khiêm đường ra ba phần chính, với 3 chức năng khác nhau: sân khấu, khán đài vua ngồi và hậu trường dùng để hóa trang, chuẩn bị trước khi ra diễn.

Sân khấu bao gồm mặt bằng 3 gian giữa và cái gác nhỏ nằm ở một phần của chái phía Hòa Khiêm điện. Sàn gỗ của cái gác này cao 2,70m, mặt nước trổ một cửa vòm giống như một cổng thành; bên trên bằng gỗ trang trí song tiện và những hình ảnh khác. Sau gác có bắc hai bên hai cái thang gỗ để diễn viên lên xuống. Có lẽ đây là sân khấu dành cho ông vua trong vở tuồng ngồi diễn. Ngay trước gác có đóng các móc sắt để gắn ròng rọc mà kéo màn.

Phần còn lại của chái này là hậu trường, bao gồm các phòng dùng để hóa trang và chuẩn bị mọi thứ trước khi ra sân khấu. Tại các phòng này, có hệ thống kệ gỗ sát vách tường và đố bản để dựng đạo cụ và đồ dùng cho diễn viên hóa trang.

Khán đài đành cho vua và đoàn tùy tùng ngồi xem là mặt bằng của cái bục (cao 0,20m, xây liền với nền) nằm ở chái phía Lương Khiêm điện, nơi vua ăn ngủ. Dĩ nhiên, ngự tọa phải được thiết trí ở giữa, bên dưới tấm hoành phi đề tên công trình kiến trúc: Minh Khiêm đường. Ngự tọa ở vị thế đối diện với cái gác, và đây là vị trí nhìn ra sân khấu rõ nhất.

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử sân khấu, Minh Khiêm đường là nhà hát xưa nhất của Việt Nam hiện còn, tương đối đầy đủ hình dạng và các đường nét chủ yếu của nguyên bản. Vào năm 1978 ông Pierre Pichard, một chuyên gia của UNESCO, đã đánh giá rất cao về nhà hát này. Đối với ngành văn hóa Việt Nam, chúng ta càng phải nhận thức về giá trị của nó một cách sâu sắc hơn. Bởi vậy, hiện nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đang tiến hành việc tu sửa Minh Khiêm đường để phục hồi toàn bộ giá trị lịch sử và nghệ thuật cho nhà hát độc đáo này.

Huế, 8-1992
P.T.A.
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.