Minh Khiêm đường một nhà hát độc đáo ở lăng Tự Đức

09:48 25/05/2022


PHAN THUẬN AN

Nhà hát cổ Minh Khiêm Đường - Ảnh: internet

Một điều gây ngạc nhiên và thú vị đối với các nhà nghiên cứu văn hóa nghệ thuật và các du khách nội địa cũng như quốc tế, nhất là đối với người phương Tây, là trong một khu lăng tẩm của Huế, chỗ chôn một ông vua đã chết, lại có một nhà hát để diễn tuồng cho vua xem, trình tấu ca múa và âm nhạc cho vua thưởng thức. Đó là nhà hát Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức. Nhà hát này là một công trình kiến trúc mang giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Nó là một trong những biểu hiện cụ thể nhất của chủ đề tư tưởng và triết lý kiến trúc lăng tẩm Huế: đây là cuộc sống của những người đã chết, và là nơi sống gửi thác về (sinh ký tử quy). Nhờ xây dựng theo tư tưởng chủ đạo ấy mà lăng lẩm các vua nhà Nguyễn được xếp vào kỳ quan của thế giới vào năm 1957 (Les merveilles du Monde, Hachette, Paris, trang 227).

Riêng lăng Tự Đức đã được xây dựng trong 3 năm, từ 1864 đến 1867, khi vua đang tại vị. Ở đó có khoảng 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ khác nhau, nhưng nhìn một cách khái quát, có thể phân chia mặt bằng kiến trúc ra làm hai khu vực: Lăng mộ ở bên trái và tẩm điện ở bên phải. Lúc sinh thời, nhà vua đã đặt tên cho khu vực tẩm điện ấy là Khiêm Cung mà cửa chính nó là Khiêm Cung Môn. Ngoài hệ thống Hoàng cung ở Đại Nội, Khiêm cung có thể được xem là hệ thống Hoàng cung thứ hai mà vua Tự Đức đã dùng để thỉnh thoảng lên đây nghỉ ngơi tiêu khiển. Thể chất nhà vua vốn bạc nhược, năng đau ốm, và tinh thần lại thường căng thẳng vì việc nhà lẫn việc nước. Một nhà nghiên cứu trước đây đã từng viết: "Trong lúc việc nước rối ren, tâm trí mệt mỏi, vua muốn có một nơi để thỉnh thoảng xa lánh cảnh triều nghi, lên đó đi dưỡng tinh thần" (Bửu Kế, Lăng Tự Đức, Tạp chí Đại học, Huế, số 31, tháng 2-1963, trang 130).

Trong khu vực giải trí đó của nhà vua, có khoảng vài chục công trình kiến trúc, bao gồm cung điện, nhà cửa, đình tạ, hồ, đảo... và đặc biệt nhất là nhà hát Minh Khiêm đường.

Nhà hát này được xây đựng vào đầu năm 1865. Trên tấm hoành phi bằng gỗ khá lớn được chạm trổ và sơn son thếp vàng, hiện nay còn treo tại chỗ (trong nhà hát), ngoài ba chữ lớn "Minh Khiêm đường" còn có một lạc khoản bên trái ghi rõ thời điểm xây dựng ấy: "Tự Đức thập nhất niên thập nhị nguyệt cát nhật tạo" (Xây dựng vào ngày tốt tháng 12 năm Tự Đức thứ 17), tức là tháng 1-1865.

Sau khi Khiêm Cung được xây dựng xong (1867), vua Tự Đức còn sống thêm 16 năm nữa (đến năm 1883) và thỉnh thoảng lên đây hưởng thú thanh nhàn, trong đó có cái thú xem biểu diễn nghệ thuật sân khấu, nhất là nghệ thuật hát bội, ở nhà hát Minh Khiêm đường.

Nhìn lại lịch sử sân khấu Việt Nam, bộ môn hát bội đã đạt đến chỗ cực thịnh dưới triều Nguyễn (1802-1945). Từ đầu thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, triều đình Huế đã thành lập những đội ca, nhạc, múa, diễn tuồng càng ngày càng đông đảo và tổ chức có quy củ. Vua Gia Long đã cho dựng nhà hát Thông Minh Đường trong phạm vi Cung Diên Thọ để bà Hoàng Thái Hậu thưởng thức nghệ thuật sân khấu. Vua Minh Mạng cho xây Duyệt Thị Đường để vua cùng gia đình và triều đình đến coi diễn tuồng. Vua Thiệu Trị cho dựng thêm nhà hát Tịnh Quan Đường trong phạm vi Cung Khôn Thái dành cho vua và các bà nội cung xem hát. Vua Tự Đức cho xây Minh Khiêm Đường và Khiêm Cung như đã nói trên. Và vua Khải Định cho xây nhà hát Cửu Tư Đài theo lối tân kỳ tại cung An Định.

Hiện nay các nhà hát Thông Minh đường, Tịnh Quan đường và Cửu Tư Đài đều đã điêu tàn, mai một. Duyệt Thị Đường đã bị biến tướng từ khi dùng làm Trường Âm nhạc cách đây hơn 30 năm. Chỉ có Minh Khiêm đường là nhà hát còn được tương đối nguyên vẹn. Đó là một điều rất quý đối với các nhà nghiên cứu nghệ thuật sân khấu.

Nghệ thuật tuồng triều Nguyễn đã đạt đến đỉnh cao của nó dưới thời Tự Đức (1848-1883). Vua Tự Đức là một nhà văn hóa hơn là một nhà chính trị. Ông có kiến thức rộng về lịch sử, văn học và nghệ thuật. Bấy giờ, Huế là trung tâm nghệ thuật tuồng lớn nhất trong nước. Nhà vua đã cùng với các danh nho trong triều biên soạn, chỉnh lý tuồng hát và quy tụ được khoảng 300 đào kép hát về kinh đô để trổ tài diễn xuất. Nhà hát tuồng nổi tiếng nhất của Việt Nam trong mấy năm này là Đào Tấn, một vị quan dưới thời Tự Đức. Dưới thời ông vua mang tâm hồn nghệ sĩ này, kịch bản hát bội xuất hiện nhiều chưa từng thấy xưa nay, trong đó có những pho tuồng đồ sộ, như "Vạn bửu tường trình", "Quần phương hiến thụy", "Học lãm"... mỗi pho dài cả trăm hồi và diễn trong nhiều đêm.

Minh Khiêm đường cũng đã từng là nơi diễn các tuồng hát như thế để cho nhà vua thưởng thức. Đây cũng là nơi trình tấu ca múa và âm nhạc là những bộ môn mà nhà vua hâm mộ. Trong bài Khiêm Cung Ký, vua Tự Đức có viết: "Minh Khiêm đường bị lâm hạnh tấu nhạc dã" (Minh Khiêm đường được làm sẵn để khi vua lên chơi thì nghe trình tấu âm nhạc). Minh Khiêm đường liên quan đến sở trường, sở thích của vua Tự Đức đối với văn hóa nghệ thuật, và liên quan đến những hoạt động sôi nổi của các bộ môn văn nghệ trình diễn trên sân khấu đương thời. Nó là một di tích chứng minh hùng hồn nhất để thấy được sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật sân khấu thời bấy giờ.

Minh Khiêm đường lại là nhà hát có giá trị đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc, trong cách trang hoàng và trang trí.

Nằm trong phạm vi Khiêm Cung, bốn tòa nhà Hòa Khiêm Điện, Lương Khiêm Điện, Minh Khiêm đường và Ôn Khiêm đường tọa lạc ở bên cánh trái, nối liền hai chái thuộc hai mé ấy của hai ngôi điện vừa nối lại với nhau. Cũng như Ôn Khiêm đường nằm đối diện, Minh Khiêm đường là tòa nhà có 3 gian 2 chái và 2 hiên. Toàn bộ cấu trúc của tòa nhà nằm trên một mặt bằng hình chữ nhật dài 27,57m và rộng 18,15m. Nền cao 0,65m, mặt lát gạch bát tràng và quanh nền bó vĩa bằng đá thanh. Nền ở phần chái phía Lương Khiêm Điện xây cao hơn 0,20m so với nền của 3 gian và chái kia, vì đây là nơi đặt ngự tọa để vua ngồi xem. Hai mặt trước và sau của nền, trổ 5 hệ thống bậc cấp bằng đá thanh với thành bậc chạm trổ hình kỳ lân tạo thành những khối vân xoắn rất mềm mại và sinh động, gồm hai hệ thống bậc cấp ở phía sân và ba hệ thống phía vườn.

Cao khoảng 7m, toàn bộ giàn mái được chống đỡ bởi một hệ thống cột gỗ, gồm 6 hàng cột dọc và 8 hàng cột ngang, tổng cộng đáng lẽ là 48 cột, vì có hai cột ở gian giữa không dựng được với mục đích tạo ra sự rộng rãi cho mặt bằng sân khấu để khi trình diễn khỏi bị vướng. Các cột dựng trên chân đá tảng. Hệ thống kèo gồm 4 bộ, được cấu trúc theo kiểu vì kèo cánh ác mà đuôi các kèo được chạm trổ hình dây lá cách diệu. Các hoành, trến, và đặc biệt nhất là các pa-nô ở liên ba đố bản đều chạm trổ tỉ mỉ công phu với những mô-típ trang trí hình ảnh bát bửu, hồi văn chữ vạn và nhiều đường nét kỷ hà rất phong phú và đa dạng.

Đáng chú ý nhất về phần trang trí trong nhà hát này là ở trần nhà, mặt trần gỗ rộng khoảng 40m2 trải rộng khắp mặt bằng hai hàng cột giữa chạy suốt ba gian. Ở đó các nghệ nhân thời Tự Đức đã trang trí thành một bầu vũ trụ bao la, gồm có mặt trời (đường kính 0,30m), các đám mây trắng và các vì tinh tú. Khoảng 50 vì tinh tú được làm bằng khuy đồng bọc hạt thủy tinh ở giữa (đường kính lớn nhỏ khác nhau, từ 5cm đến 3cm). Sự thiết kế bầu vũ trụ như thế có tác dụng mỗi khi trong nhà hát thắp đèn để diễn thì các vì tinh tú sẽ phản chiếu ánh sáng lấp lánh từ nhiều góc tạo ra những màu sắc kỳ diệu, không gian của sân khấu trở nên sống động, làm cho con người cảm thấy mọi việc ở chung quanh mình như đang biến chuyển không ngừng. Chính nghệ thuật trang trí độc đáo này đã làm cho người diễn lẫn người xem có cảm giác những gì diễn ra trên sân khấu đều như đang diễn ra trên thực tế của cuộc đời dưới bấu trời tự nhiên. Thực là một cách trang trí đầy sáng tạo.

Chung quanh tòa nhà có xây tường gạch để bao che ba mặt của mỗi chái, trổ 7 cửa sổ song tiện ván lùa, và 3 cửa lớn để thông với các hướng. Ở hai mắt trước và sau của 3 gian giữa thì dựng hai hệ thống của buồng khoa lồng kính. Hệ thống tường vách xây bằng gạch quanh hai chái góp phần chịu lực cùng hệ thống cột trong việc giữ vững bộ giàn mái của tòa nhà.

Bộ mái Minh Khiêm đường được lợp bằng ngói ống thanh lưu ly. Bờ nóc bờ quyết đều trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng tráng men màu. Giữa bờ nóc được chắp hình bát quái bằng những thanh đồng tán lại thành hình tám cạnh. Ở hai đầu bờ nóc và cuối các bờ quyết là hình ảnh cành lá hóa rồng đắp bằng vôi vữa ghép sành sứ. Mỗi mặt đầu hồi được trang trí hình một cái khánh cách điệu ốp bằng gạch hoa đúc rỗng tráng men xanh.

Căn cứ vào cách trang hoàng, trang trí và vị thế của các bộ phận kiến trúc, chúng ta có thể chia mặt bằng của không gian nội thất Minh Khiêm đường ra ba phần chính, với 3 chức năng khác nhau: sân khấu, khán đài vua ngồi và hậu trường dùng để hóa trang, chuẩn bị trước khi ra diễn.

Sân khấu bao gồm mặt bằng 3 gian giữa và cái gác nhỏ nằm ở một phần của chái phía Hòa Khiêm điện. Sàn gỗ của cái gác này cao 2,70m, mặt nước trổ một cửa vòm giống như một cổng thành; bên trên bằng gỗ trang trí song tiện và những hình ảnh khác. Sau gác có bắc hai bên hai cái thang gỗ để diễn viên lên xuống. Có lẽ đây là sân khấu dành cho ông vua trong vở tuồng ngồi diễn. Ngay trước gác có đóng các móc sắt để gắn ròng rọc mà kéo màn.

Phần còn lại của chái này là hậu trường, bao gồm các phòng dùng để hóa trang và chuẩn bị mọi thứ trước khi ra sân khấu. Tại các phòng này, có hệ thống kệ gỗ sát vách tường và đố bản để dựng đạo cụ và đồ dùng cho diễn viên hóa trang.

Khán đài đành cho vua và đoàn tùy tùng ngồi xem là mặt bằng của cái bục (cao 0,20m, xây liền với nền) nằm ở chái phía Lương Khiêm điện, nơi vua ăn ngủ. Dĩ nhiên, ngự tọa phải được thiết trí ở giữa, bên dưới tấm hoành phi đề tên công trình kiến trúc: Minh Khiêm đường. Ngự tọa ở vị thế đối diện với cái gác, và đây là vị trí nhìn ra sân khấu rõ nhất.

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử sân khấu, Minh Khiêm đường là nhà hát xưa nhất của Việt Nam hiện còn, tương đối đầy đủ hình dạng và các đường nét chủ yếu của nguyên bản. Vào năm 1978 ông Pierre Pichard, một chuyên gia của UNESCO, đã đánh giá rất cao về nhà hát này. Đối với ngành văn hóa Việt Nam, chúng ta càng phải nhận thức về giá trị của nó một cách sâu sắc hơn. Bởi vậy, hiện nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế đang tiến hành việc tu sửa Minh Khiêm đường để phục hồi toàn bộ giá trị lịch sử và nghệ thuật cho nhà hát độc đáo này.

Huế, 8-1992
P.T.A.
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)