Mấy suy ngẫm từ câu Kiều “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” ở bản Nôm chép tay của Hoàng gia triều Nguyễn

15:20 27/11/2020

NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG  

Trên Tạp chí Sông Hương số 379 (9/2020) và Báo Thừa Thiên Huế, tôi đã có giới thiệu lại cuốn “Truyện Kiều, bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn, lưu trữ tại thư viện Anh quốc” do Nguyễn Khắc Bảo công bố (Nxb. Lao động ấn hành, 2017).

Ảnh trích trong 'bản Kiều Hoàng gia' tờ 56a

Các bài viết này đã đưa ra các bằng chứng để lập luận rằng đây là bản Kiều do chính vua Tự Đức chép tay, trên cơ sở so sánh thư thể, xác định sự trùng khớp về các chữ “châu phê” (chữ đỏ) và nội dung truyện Kiều (chữ đen) trên cùng 01 trang tượng trưng (xin xem Sông Hương số 379 từ tr. 47 - 50).

Nhân 200 năm (1820 - 2020) ngày mất của Đại thi hào, Danh nhân văn hóa Nguyễn Du, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã tổ chức chương trình tưởng niệm vào ngày 20/9. Tại diễn đàn này, tôi cũng đã có phát biểu giới thiệu lại bản truyện Kiều ấy. Sau đó, một số câu hỏi đã được đặt ra. Đáng chú ý là câu hỏi của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về ứng xử của vua Tự Đức đối với câu “Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” trong Truyện Kiều. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đề nghị tôi tra cứu để xác định cụ thể chi tiết trên, bởi lẽ trước đây nhiều người cho rằng đọc đến câu này chính vua Tự Đức đã rất tức giận, đòi đánh đòn cụ Nguyễn. Một cách cảm tính tôi trả lời ngay, nếu là một người hiểu biết như Tự Đức chắc chắn vua sẽ giữ nguyên văn câu này, vì trên hết, nhà vua thừa hiểu đây là câu thơ nói về Từ Hải, chẳng có ý ám chỉ điều gì. Tuy vậy, tôi đã khẳng định là sẽ tra cứu để trả lời cụ thể đối với câu hỏi có tính gợi mở ấy. Kết quả tra cứu lại có thêm một số thông tin đáng quan tâm, nhân đây cũng xin chia sẻ cùng độc giả, đặc biệt đối với những ai quan tâm đến Truyện Kiều.

1. Không có chuyện vua Tự Đức tức giận khi đọc câu thơ “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” và đòi đánh roi tác giả

Việc vua Tự Đức không thích/ hoặc tức giận vì câu thơ “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” nói trên, thực tế cho thấy trước đây đã có nhiều người đề cập:

- Đầu tiên có lẽ là học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936). Trên Tạp chí Sông Hương số 137 (7/2000), trong bài “Nguyễn Văn Vĩnh, một dịch giả uyên bác”, Thu Trang đã đưa đến một thông tin: “Ông Vĩnh cũng đã nhắc là vua Tự Đức đã không thích câu: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai (trang 675 chú thích số 743)”;

- Sau này, có nhiều người khác tiếp tục đề cập, dù ban đầu xem đó là một sự kiện “hư hư thực thực”, nhưng rồi có người nghĩ ra một đoạn “đối thoại” mà người đọc cứ ngỡ như là được trích dẫn từ một nguồn nào đó. Trong tham luận đọc tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII, ngày 23/4/2005, Trần Mạnh Hảo viết: “Tương truyền, vua Tự Đức là người rất mê Truyện Kiều (... ) Nhưng đọc đến câu thơ Nguyễn Du viết về Từ Hải: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, nhà vua đập bàn quát: “Bắt ngay Nguyễn Tiên Điền vào đây cho ta, quất cho 20 roi để gã biết trên đầu còn có ai hay không?”. Quan hầu thưa: “Muôn tâu Hoàng thượng, Nguyễn Tiên Điền tịch đã khá lâu rồi thưa Hoàng thượng!”. Nhà vua không thể rút lệnh đánh roi Nguyễn Du về được, bèn phán: “Treo cái án 20 roi ta ban cho Nguyễn Du lên giữa giời, để bọn văn nhân thi sĩ đời sau nhìn thấy gương tày liếp này mà liệu liệu cái thân phận bút nghiên thấp cổ bé họng thi với phú cứ thích chơi trèo!” (Ngô Minh trích lại nguyên văn đoạn này trong bài viết “Buồn vui Đại hội Nhà văn VII”, Sông Hương số 196 (6/2005);

- PGS.TS. Nguyễn Trường Lịch viết: “Chẳng phải tiếng tăm về các vị vua chúa, quan lại triều đình cùng các bậc khoa bảng từ bao đời nay vẫn còn mơ màng sương khói chuyện cũ, khó lòng sáng tỏ hư thực. Ví như chuyện vua Tự Đức nổi giận khi đọc đến câu thơ trong Truyện Kiều, nói về Từ Hải: Chọc trời khuấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Vốn là vị vua ham mê thơ phú, nhưng Ngài liền nổi máu quyền lực, quát lớn: Giá mà Nguyễn Du còn sống thì phải đè ra đánh 30 trượng!” (Trang thông tin điện tử của Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam 14/5/2010, truy cập lúc 8g52 ngày 21/9/2020);

- Nguyễn Văn Toàn viết: “Có giai thoại rằng, sau khi đọc Truyện Kiều, vua Tự Đức bỗng dưng đùng đùng nổi giận: “Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn sống, phải nọc nằm xuống đánh cho 30 roi!”. Bởi khi viết về Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”, đó là hình ảnh của Nguyễn Huệ ngày xưa trong liên tưởng của Tự Đức. Bởi qua thơ, vua Tự Đức thường xét lập trường chính trị của tác giả”. (Văn hóa Phật giáo số 228, ngày 01/7/2015, trang 10, nhiều trang web dẫn đăng lại);

- Và còn nhiều trường hợp khác nữa.

Trở lại cuốn sách “Truyện Kiều, bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn, lưu trữ tại thư viện Anh quốc” (từ đây gọi tắt là Bản Kiều Hoàng gia), có thể thấy, đây là một bản Kiều của nhà vua vì điển lệ bìa bằng vải màu vàng, dệt hình rồng, mặt rồng ngang, thân uốn khúc, chân năm móng bấu vào mây ngũ sắc, trang trí xung quanh nền là họa tiết dệt hình bát bửu. Tính chất của họa tiết rồng năm móng đưa đến nhận xét đầu tiên, đây là bản của nhà vua “ngự lãm”.

Thông tin, căn cứ đã đầy đủ cơ sở để khẳng định bản Truyện Kiều đang xét là sở thuộc của Hoàng gia, cụ thể đối tượng sở thuộc là của vua, vua ở đây là vua Tự Đức. Và như vậy, nếu vua Tự Đức không thích/ hoặc tức giận bởi câu “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” thì câu đó ắt hẳn không có cơ hội tồn tại trong Bản Kiều Hoàng gia. Ở tờ 56a trong bản Kiều này, câu thơ ấy (tức là câu 2471, 2472) vẫn giữ y nguyên: “Chọc trời quấy nước mặc dầu/ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Hình ảnh này là minh chứng cụ thể:


Xin nhắc lại, sinh thời vua Tự Đức là người say mê Truyện Kiều, hai câu cuối trong bài “Tổng từ” cho Truyện Kiều, vua Tự Đức viết: “Trích hoa ly tảo phân đề vịnh/ Nhị thập hồi trung mặc thái nghiên1 (Rực rỡ gấm hoa đề chữ vịnh/ Hai mươi hồi ấy mực lung linh). Cũng cần nói thêm là, tất cả các bản Truyện Kiều (trong đó có 10 bản xuất hiện dưới thời Tự Đức: gồm 6 bản khắc in, 4 bản chép tay) thì câu “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” này đều giữ nguyên, không có sự thay đổi nào. Điều đó còn tạo nên một cơ sở để củng cố thêm cho lập luận đã đề cập.

Cần nói thêm điều này, say mê Truyện Kiều, say mê chữ Nôm đã tạo nên sự tương tác trong sáng tạo của vua Tự Đức. Trong các vua Nguyễn, dường như chỉ có vua Tự Đức mới sử dụng chữ Nôm trong sáng tác. Các bài thơ như Ngẫm sự đời, Mừng đặng mưa, v.v. bằng chữ Nôm của nhà vua được lưu truyền qua văn bản và truyền tụng qua khẩu ngữ đến giờ. Đặc biệt, vua Tự Đức còn góp sức “phổ cập” chữ Nôm qua tác phẩm “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca”. Đây là một bộ sách gồm 13 quyển viết theo thể lục bát bằng chữ Hán và chữ Nôm, lấy chữ Hán để học chữ Nôm và ngược lại, xin trích 4 câu: “Thiên trời, Địa đất, Vị ngôi/ Phúc che, Tái chở, Lưu trôi, Mãn đầy/ Cao cao, Bắc rộng, hậu dày/ Thần mai, Mộ tối, Chuyển xây, Di dời”. Việc sắp xếp mục từ của nhà vua trong quyển sách này rất khoa học vì đã tạo nên tính hệ thống và logic 2. “Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca” có 4.572 câu gồm 32.004 chữ (16.002 chữ Hán và 16.002 chữ Nôm). Đó quả là một giáo khoa thư có một lượng chữ khá lớn, nếu thủ đắc được ắt sẽ tinh thông Hán Nôm. Điều ấy cho thấy, thích chữ Nôm, yêu Truyện Kiều là sự tương hợp trong tình cảm của vua Tự Đức.

2. Về một lối suy diễn trong cách viết đã làm méo mó thực tế

Như đã nói, khi viết về vua Tự Đức và Truyện Kiều, tuy các tác giả nêu trên có viết là “tương truyền”, nhưng vì lẽ muốn chứng minh rằng Nguyễn Du là người có khí phách, cũng vì lẽ “ám ảnh” định kiến cố hữu về triều Nguyễn và cả về vua Tự Đức nên đã đẩy câu chuyện theo hướng tiêu cực về phía nhà vua. Nhiều người đã cho là vua Tự Đức rất tức giận vì Nguyễn Du dám “coi trời bằng vung”, xem thường tôn ti, thứ bậc, có ý ngạo nghễ, kiêu bạc, v.v. Điều này là không những không công bằng mà còn làm méo mó thực tế. Đáng nói là tác giả Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Văn Toàn không chỉ dừng lại ở mức độ “tương truyền” mà còn đẩy câu chuyện xa rời thực tế khi dẫn dắt, suy diễn câu chuyện theo ý riêng. Ở đây, không thấy các tác giả trưng dẫn từ nguồn nào, có lẽ xuất phát từ lời kể, hay là những câu chuyện đồn thổi lưu truyền trong dân gian chăng? Hoặc có thể là tiếp nhận từ cách đánh giá của Trương Tửu qua: “Hình bóng của anh hùng Nguyễn Huệ bao trùm cả thời đại đã làm cơ sở hiện thực cho sự sáng tạo nhân vật Từ Hải của nhà thơ thiên tài Nguyễn Du”3.Nhưng dù xuất phát từ nguồn gốc nào, khi dẫn lại cũng cho thấy rõ quan điểm “tán đồng” của các tác giả.

Tác giả Trần Mạnh Hảo đã làm cho “nhân vật Tự Đức” trong bài viết của mình trở nên phi thực tế khi tưởng tượng ra nội dung phát ngôn này rồi gán cho nhà vua: “Bắt ngay Nguyễn Tiên Điền vào đây cho ta (…) liệu liệu cái thân phận bút nghiên thấp cổ bé họng thi với phú cứ thích chơi trèo!”. Viết vậy là quá khinh suất đối với người xưa vì lẽ trên thực tế vua Tự Đức thừa biết Nguyễn Du là ai. Người hiểu biết, say mê thi phú như vua Tự Đức mà không biết đến Nguyễn Tiên Điền quả là nực cười. Vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn nổi tiếng “tư chất thông minh, ham học” (như nhận xét của vua Thiệu Trị) mà không biết đến hành trạng của cụ Hữu Tham tri Lễ bộ, Du Đức hầu Nguyễn Du thì quá khôi hài.

Nguyễn Văn Toàn lại trượt dài hơn, không dưng lại “lôi” cả Nguyễn Huệ “vào cuộc” khi cho rằng Từ Hải trong liên tưởng của vua Tự Đức chính là “hình ảnh của Nguyễn Huệ ngày xưa”, rồi vu cho nhà vua “thường xét lập trường chính trị của tác giả”, thật đúng là suy diễn theo ý riêng.

Điều cần nói thêm là khi nghiên cứu Truyện Kiều, có nhiều hướng tiếp cận khác nhau về ngôn ngữ, văn chương, về giá trị nhân văn, về văn bản, thư tịch, v.v. và mỗi hướng đều có sự quan tâm khác nhau trong nội dung và hình thức.

Suy cho đến cùng, rộng ra, Truyện Kiều mang những nội dung tư tưởng nhân văn cao cả vì chạm đến nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần của thân phận người phụ nữ trong mọi xã hội, khi mà trong bối cảnh bấy giờ ít người như Tiên Điền đã làm được. Thân phận ấy không chỉ tồn tại thuở xưa ở xứ Tàu, ở xứ Ta mà đến nay, vẫn còn những số phận của các nàng Kiều hiện đại hiện thân đâu đó qua những “nhát cắt”, “khung hình” đậm nhạt khác nhau cuốn trong dòng chảy cuộc sống. Đỉnh cao nhân văn của Truyện Kiều vì vậy mà vượt thời gian. Nội dung đó phản ảnh tâm trạng xã hội của nhiều thời đại, không dừng lại ở thời đại Nguyễn Du. Mượn chuyện xưa xứ người, Nguyễn Du đã trình bày ngay đầu truyện về “chữ tài, chữ mệnh” trong hoàn cảnh “Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh” và khép lại bằng một sự tổng kết “Ngẫm hay muôn sự tại trời” là một diễn ngôn có hướng về “tài mệnh tương đố” mà thôi: Đã mang lấy nghiệp vào thân/ Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thế nên, nhân có sự xuất hiện Bản Kiều Hoàng gia này, thiết nghĩ, trong nghiên cứu Truyện Kiều nên chăng cần cân nhắc lại những nội dung cố hữu vốn từng “gá buộc” Truyện Kiều phải “mang vác”. Cứ như lối nhận định truyền thống, Truyện Kiều là một bản cáo trạng đanh thép về chế độ phong kiến Việt Nam, có thật là vậy không, điều này có lẽ xin nhường lại để độc giả tiếp tục suy ngẫm. Tôi xin để ngõ hai câu hỏi sau:

- Câu hỏi để ngõ 1: Trước một tác phẩm có tính cách “cáo trạng” về chế độ phong kiến như thế, nhưng vì quá yêu mến văn chương nghệ thuật, mà các vua Nguyễn chả lẽ không những bất chấp “tác hại” của nó mà còn trân quý, cho sưu tầm, san định, khắc in rồi phổ biến, lưu trữ?!

- Câu hỏi để ngõ 2: Hoàng gia triều Nguyễn và bản thân vua Tự Đức liệu có đủ bản lĩnh để nâng niu, quý trọng nội dung một cuốn truyện thơ của vị quan trong thời đại ấy từng viết phê phán xã hội - một xã hội mà bản thân vua là người đứng đầu tạo dựng ra - để rồi chính triều thần và nhà vua lại căn cứ nội dung đó mà làm nên một hình thức cực kỳ thẩm mỹ cho một bản Kim Vân Kiều tân truyện như vậy?!

3. Nói thêm về Kim Vân Kiều tân truyện của Hoàng gia - một bản sách giấy dó đẹp nhất trong lịch sử thư tịch trung đại ở Việt Nam

Từng tiếp xúc với nhiều cổ vật thư tịch, như tôi được thấy và biết, Bản Kiều Hoàng gia có lẽ là quyển sách đẹp nhất và cầu kỳ nhất về hình thức của loại hình sách bằng giấy dó trong lịch sử trung đại ở Việt Nam. Nếu những ai đã quan tâm đến thư tịch, tiếp xúc với cuốn sách, sẽ đồng thuận với cá nhân tôi ở nhận định này.


Bản Kim Vân Kiều tân truyện của Hoàng gia gồm 146 trang (không kể bìa và phụ bìa). Bản Kiều này không theo lệ là đánh số tờ vào 01 trang, mà đánh số tờ vào cả 146 trang, do vậy mỗi số đều được đánh thành 2 lần (ví dụ, ở tờ đầu 1 thì đánh 2 lần Nhất vào 2 trang, tờ cuối 73 thì đánh 2 lần Thất thập tam). Đây là bản Kiều được chép tay rất cẩn thận với một lối thư pháp thể chân pha thể hành mềm mại, đều đặn từ dòng đầu đến dòng cuối.

Bố cục của từng trang tạo nên một tính điển phạm rất cao, chặt chẽ và thống nhất. Từng trang chia làm 02 phần: phần trên viết chữ, phần dưới vẽ tranh minh họa cho nội dung trang đó.

Phần trên, thứ tự từ trái qua, đầu tiên “châu phê” bằng chữ Nôm của nhà vua, viết chữ đỏ, ghi tóm lược và nhận xét của vua về đoạn Kiều chép trong trang. Tiếp đó là phần  nội dung đoạn Kiều viết chữ Nôm màu đen. Sau đó là phần phụ chú viết chữ Hán màu đen và kết thúc bằng một câu khái quát chủ đề và số trang bằng chữ Hán.

Phần dưới là tranh minh họa, toàn quyển có 144 bức minh họa tương ứng với 144 trang nội dung (không kể trang vẽ ghi tên sách, minh họa và trang giới thiệu vẽ tác giả Nguyễn Du ở đầu quyển). Các bức minh họa vẽ bằng mực nho với họa pháp ám họa, dùng sắc độ của mực mài để diễn đạt độ sâu của thể khối khi mô tả của con người, cảnh vật. Lối vẽ truyền thần, tả chân cực kỳ chi tiết là ngôn ngữ xuyên suốt của 144 minh họa. Gọi là minh họa vì chúng tương ứng, phụ họa cho nội dung của từng trang, nhưng thực chất có thể xem đó là từng bức tranh tả thực hoàn chỉnh trong một khuôn khổ thống nhất. Màu sắc và đường nét được lấp đầy trong phạm vi từng tranh. Điều đáng quan tâm là mặc dù con người và cảnh vật được tả trong tranh (như tóc tai, mũ miện, y phục, nhà cửa, vật dụng đều mang dáng vẻ Trung Hoa, vì cốt truyện xuất phát từ Trung Hoa) nhưng chúng ta có thể tìm thấy các điểm tương đồng của hình họa trong cách thể hiện nếu so sánh các tranh trong bản Kiều này với tranh in mộc bản năm 1844 của Bộ Công triều Nguyễn minh họa trong Thần Kinh nhị thập cảnh, thơ vua Thiệu Trị. Cách thể hiện lá cờ, cổng thành, thuyền ngoài khơi, non bộ dọc lối đi, đầu trụ tường thành, tường thành, v.v. đều có sự tương đồng rất thú vị. Dưới đây là vài hình ảnh so sánh về sự tương đồng đó:


Điều này tiếp tục khẳng định tranh vẽ trong bản Kiều này là họa sĩ cung đình thời Nguyễn vẽ. Đáng tiếc  là chưa có cơ sở nào để định hướng tác giả vẽ các bức tranh này.

Từ những phân tích ở bài viết trên Sông Hương số 379 và ở bài này, đến  đây, thiết nghĩ cũng cần nhận định thêm rằng:

- Vua Tự Đức là người cực kỳ ái mộ Truyện Kiều mới cho “tạo tác” một Bản   Kiều Hoàng gia đặc sắc như đã đề cập. Tất cả các tập thơ của các vua Nguyễn bằng giấy dó, giấy bản không có tập thơ nào được thực hiện công phu, thẩm mỹ như quyển Truyện Kiều này.

- Trong lịch sử, có lẽ chưa có ai, chưa có vị vua nào vì yêu mến một tác phẩm văn chương của người khác mà có thể bỏ thời gian và công sức để chép ra, bình luận, chú giải, rồi chỉ dụ vẽ tranh để minh họa, tạo nên một tác phẩm tuyệt mỹ như thế, chỉ có sự say mê đặc biệt mới có thể làm được.

- Cũng có lẽ, trong lịch sử trung đại, cũng chưa có một tác phẩm văn chương nào được đối xử trọng vọng như vậy, mà sự trọng vọng ở đây là một vị vua. Tấm lòng ấy của vua Tự Đức rất đáng trân trọng.
 

- Và qua bản Kiều này, có thể thấy rằng xưa nay, những hình dung của người Việt Nam đời sau về dung mạo Nguyễn Du đều xuất phát từ tưởng tượng. Chưa thấy xuất hiện một loại tài liệu hay tranh, ảnh nào đề cập đến dung mạo Nguyễn Du. Nay từ trang đầu tiên (Kim Vân Kiều tân truyện tiểu dẫn) của Bản Kiều Hoàng gia, xuất hiện một hình ảnh với những thông tin thú vị. Lần đầu tiên, chúng ta mới có một hình dung đầy đủ về dung mạo của Nguyễn Du qua ký họa của triều Nguyễn. Bên trên trang này là một đoạn tiểu dẫn ghi nhận xét của vua Tự Đức, xin trích hai câu đầu: 閱 才 情 錄 / 翠 翹 第 一 / 禮 参 阮 候 因 其 迹 而 為 傳 / 至 今 猶 嘖 嘖 在 人 口(Duyệt tài tình lục, Thúy Kiều đệ nhất. Lễ tham Nguyễn hầu nhân kỳ tích vi nhi truyện, chí kim do trách trách tại nhân khẩu, nghĩa là: Đọc duyệt, sao chép chuyện tài tình, thì Thúy Kiều là đệ nhất. Lễ tham Nguyễn hầu4 dựa vào tích ấy mà làm [viết] truyện, đến nay người đời vẫn còn nức nở khen mãi). Bên dưới trang  vẽ một nhà nho ngồi đọc  sách, hậu cảnh là bức bình  phong dạng cuốn thư. Đó chính là tác giả của Kim Vân Kiều tân truyện (Truyện Kiều).

*
Chắp nhặt dông dài” như vậy ngõ hầu phân tích lại cho công bằng khi đánh giá thái độ của một trí thức, một chính trị gia, một người đứng đầu là vua Tự Đức đối với một tác phẩm văn chương và tác giả của nó. Nhân đây, cũng có lời gửi gắm cùng các nhà Kiều học nên tiếp tục nghiên cứu cụ thể và toàn diện về Bản Kiều Hoàng gia, vì chắc chắn sẽ còn rất nhiều điều mới mẻ và thú vị về Truyện Kiều và chuyện quanh nó qua bản Kiều đặc sắc này.

N.P.H.T
(TCSH380/10-2020)

>> Xem thêm: Truyện Kiều, bản chép tay của hoàng gia Triều Nguyễn

------------------
1. Dẫn theo Nguyễn Quảng Tuân, Truyện Kiều, bản Kinh thời Tự Đức 1870, in trong Kỷ yếu “Di sản Hán Nôm Huế”, Đại học KHXH&NV Hà Nội, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xb, Huế, 2003, tr.127.
2. Chữ trong 13 quyển sắp xếp như sau: quyển 1, 2 là các chữ chỉ về trời đất; quyển 3, 4, 5 là các chữ chỉ về con người; quyển 6, 7 là các chữ chỉ về chính trị, giáo hóa; quyển 8, 9 là các chữ chỉ về các vật dụng; quyển 10, 11 là các chữ chỉ về cây cỏ; quyển 12 là các chữ chỉ về các loài cầm thú; quyển 13 là các chữ chỉ về côn trùng, các loài tôm cá.
3. Trương Tửu, Tuyển tập nghiên cứu phê bình, Nxb. Lao Động, Hà Nội, tr. 545.
4. Lễ Tham Nguyễn Hầu là tên viết tắt của tác giả soạn Truyện Kiều (Nguyễn Du). Viết đầy đủ là Tham tri bộ Lễ, tước Du Đức hầu. Lễ tham Nguyễn hầu là cách dùng phổ biến để chỉ tác giả Truyện Kiều (xem ảnh các bản Kiều khắc in thời Tự Đức có in ở trang trước).  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH