NGUYỄN QUANG HÀ
Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng.
Minh họa: TÔ TRẦN BÍCH THÚY
Tâm hỏi:
- Đêm nay bọn lính địch không về à?
Một anh du kích đáp:
- Giờ này chúng chưa về là chúng không về nữa rồi.
Du kích Hàng nói:
- Mạ Bảy đang chờ các anh trong ấy.
Thế là chúng tôi theo du kích vào ấp, đến nhà mẹ Bảy.
Vừa vào cổng, thấy mẹ Bảy đang dọn mấy mâm cơm ra giữa sân (mâm nào cũng có một đĩa thịt to). Anh Tâm chào mẹ rồi hỏi ngay:
- Ôi sướng quá, đêm nay mẹ cho chúng con ăn thịt à?
Mẹ cười cầm tay từng đứa rồi nói ngay:
- Sáng nay mạ đi chợ về, tới cổng ấp, thì có một nhóm lính đang lật thúng kiểm tra hàng của bà con mua về. Thấy thúng của mạ gạo nhiều, lại có cả một xâu thịt, một tay tuồng trưởng nhóm (hình như người nơi khác tới) hỏi:
- Nhà bà 5 người sao mua gạo thịt nhiều thế, chắc mua cho bọn VC hả?
- VC là chi? Nhà tui hôm ni có kỵ, phải mời họ tộc và cả xóm giềng nữa eng ạ. Có việc họ đã mời mình, chừ nhà mình có việc lại không mời họ, ngó răng đặng eng ơi.
Đúng, buổi trưa chúng đến tận nhà kiểm tra thật. Nhà hôm ni không có kỵ nhưng mạ vẫn sửa soạn đặt mâm cúng lên bàn thờ. Mạ lên tiếng mời:
- Mời các ông ở lại dự đám kỵ với gia đình nhà tui.
Chúng từ chối, ra đi, không quay lại nữa…
Kể xong, mạ quay sang phía chúng tôi, bảo:
- Bây giờ mạ mời các con.
Ăn xong, anh em chúng tôi xin phép mẹ ra thăm các gia đình cơ sở.
Mạ dặn:
- Bữa sáng khoan vội ăn ở mô cả, về đây mạ nuôi, rồi ra hầm bí mật.
Mẹ Bảy là vậy đó. Không có dân làm sao cán bộ nằm vùng có thể sống được.
Một chuyện kể về mẹ, chúng tôi không bao giờ quên.
Sau chiến dịch Mậu Thân, bọn địch biết mối quan hệ thương yêu, đùm bọc, liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ cách mạng và người dân, nên chúng đã thực hiện kế hoạch “Ấp chiến lược”. Chúng bắt dân đẵn tre, rào làng, hô hào dân phải “xây dựng làng chiến đấu”.
Cũng từ đó, chỉ có duy nhất một đường vào làng, đó là cổng làng, luôn có người canh gác. Đêm chúng lại cho lính về tuần tra, ai ra vào làng đều bị kiểm soát nghiêm ngặt.
Đêm, khi dân trong ấp tắt đèn, nằm im, hàm nghĩa là lính địch không về. Còn ngược lại, có lính về, cả làng thắp đèn sáng trưng, ấy là dấu hiệu bí mật báo cho quân giải phóng biết. Hoạt động cách mạng thật rất khó khăn…
Đêm ấy, bộ đội về, làng như đang ngủ yên bình, không một ánh đèn, anh em nằm từng nhóm ngoài hàng rào ấp chiến lược, chờ du kích ra thông tin mới vào sâu hoạt động.
Có một tiểu đội lính địch đang vào vườn mẹ Bảy. Mẹ đem đèn ra đánh diêm, định thắp đèn lên, nhưng tay tiểu đội trưởng giơ súng ngăn lại, kiêu căng nói với mẹ: “Để chúng tôi bắt sống bọn Việt Cộng cho bà xem”.
Mẹ Bảy quan sát chúng phân chia nhóm, mỗi nhóm gác một góc, súng lên đạn sẵn sàng, nếu cần nổ súng ngay.
Mẹ Bảy ngồi một chỗ mà nghe mồ hôi chảy tràn trên trán, trên mặt, mẹ lo, tình hình này anh em mình mở rào vào ấp, đi vào các nhà cơ sở, rất dễ cụng đầu với lính địch. Mẹ lo quá, vì chắc chắn không phải chỉ một nhà mẹ, mà cả làng, đều bị kiểm soát. Mẹ chưa tìm ra cách nào để báo cho quân giải phóng biết trong ấp có địch.
Chợt trong đầu mẹ lóe lên một ý nghĩ, mẹ đi lấy ấm, đổ nước vào, tên tiểu đội trưởng hỏi mẹ:
- Bà định làm gì đó?
Mẹ nói:
- Khách tới nhà, chủ phải mời trà mới phải đạo, tui xin phép đi nấu nước mời các ông uống.
Không hiểu được ý của mẹ, tên lính gật đầu đồng ý.
Vào bếp, mẹ cho bếp cháy lên ngay, đồng thời cầm ngay túm lửa nhỏ, giả vờ đi tìm gì đó trong nhà. Thấy im lặng, trong tích tắc, mẹ đưa túm lửa lên mái nhà, nhà bùng cháy.
Mẹ không ngờ tên tiểu đội trưởng vừa phát hiện ra hành động đốt nhà của mẹ, lập tức rút dao găm chém vào tay mẹ, máu chảy đầm đìa. Mẹ gọi ngay con gái đầu lòng đến băng vết thương cho mẹ, may tay mẹ không bị gãy.
Trong ấp, lúc đó, không hiểu sao, lính rầm rập kéo nhau bỏ ra khỏi làng… Chắc cho đến lúc ấy, tên tiểu đội trưởng mới hiểu ý đồ báo tin cho VC của mẹ, nên không thèm chữa cháy, cho quân rút khỏi nhà mẹ Bảy với ánh mắt hằn học, đe dọa...
Hàng xóm thấy cháy, vội vàng chạy đến dập lửa, nhưng căn bếp của nhà mẹ Bảy đã hoang tàn.
Một lúc sau, đợi lính đi xa khuất, hàng xóm ra về, du kích mới ra đưa bộ đội vào ấp. Họ kể cho anh Tâm nghe toàn bộ chuyện vừa xảy ra.
Anh Tâm dẫn một nhóm bộ đội vào gặp mẹ, anh nói ngay:
- Nếu không có sáng kiến của mẹ thì một là lũ chúng con nằm ngủ ngoài đồng làng, hai là bị chúng bắn ám sát cả loạt rồi.
Anh Tâm sau khi bảo anh y tá làm dịu vết thương cho mẹ, đã bàn ngay với du kích: rằng ngay ngày hôm sau, các gia đình góp tre, giúp sửa nhà bếp của mẹ Bảy thật đàng hoàng.
Quay sang đồng đội của mình, anh Tâm tâm tình:
- Bác Hồ nói: “Nếu không có dân liệu chúng ta làm được gì”. Ngay cả trước cái chết dân chẳng đã cứu chúng ta rồi đó sao?
N.Q.H
(SHSDB42/09-2021)
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.