Mạ Bảy

09:55 07/10/2021

NGUYỄN QUANG HÀ  

Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng. 

Minh họa: TÔ TRẦN BÍCH THÚY

Tâm hỏi:

- Đêm nay bọn lính địch không về à?

Một anh du kích đáp:

- Giờ này chúng chưa về là chúng không về nữa rồi.

Du kích Hàng nói:

- Mạ Bảy đang chờ các anh trong ấy.

Thế là chúng tôi theo du kích vào ấp, đến nhà mẹ Bảy.

Vừa vào cổng, thấy mẹ Bảy đang dọn mấy mâm cơm ra giữa sân (mâm nào cũng có một đĩa thịt to). Anh Tâm chào mẹ rồi hỏi ngay:

- Ôi sướng quá, đêm nay mẹ cho chúng con ăn thịt à?

Mẹ cười cầm tay từng đứa rồi nói ngay:

- Sáng nay mạ đi chợ về, tới cổng ấp, thì có một nhóm lính đang lật thúng kiểm tra hàng của bà con mua về. Thấy thúng của mạ gạo nhiều, lại có cả một xâu thịt, một tay tuồng trưởng nhóm (hình như người nơi khác tới) hỏi:

- Nhà bà 5 người sao mua gạo thịt nhiều thế, chắc mua cho bọn VC hả?

- VC là chi? Nhà tui hôm ni có kỵ, phải mời họ tộc và cả xóm giềng nữa eng ạ. Có việc họ đã mời mình, chừ nhà mình có việc lại không mời họ, ngó răng đặng eng ơi.

Đúng, buổi trưa chúng đến tận nhà kiểm tra thật. Nhà hôm ni không có kỵ nhưng mạ vẫn sửa soạn đặt mâm cúng lên bàn thờ. Mạ lên tiếng mời:

- Mời các ông ở lại dự đám kỵ với gia đình nhà tui.

Chúng từ chối, ra đi, không quay lại nữa…

Kể xong, mạ quay sang phía chúng tôi, bảo:

- Bây giờ mạ mời các con.

Ăn xong, anh em chúng tôi xin phép mẹ ra thăm các gia đình cơ sở.

Mạ dặn:

- Bữa sáng khoan vội ăn ở mô cả, về đây mạ nuôi, rồi ra hầm bí mật.

Mẹ Bảy là vậy đó. Không có dân làm sao cán bộ nằm vùng có thể sống được.

Một chuyện kể về mẹ, chúng tôi không bao giờ quên.

Sau chiến dịch Mậu Thân, bọn địch biết mối quan hệ thương yêu, đùm bọc, liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ cách mạng và người dân, nên chúng đã thực hiện kế hoạch “Ấp chiến lược”. Chúng bắt dân đẵn tre, rào làng, hô hào dân phải “xây dựng làng chiến đấu”.

Cũng từ đó, chỉ có duy nhất một đường vào làng, đó là cổng làng, luôn có người canh gác. Đêm chúng lại cho lính về tuần tra, ai ra vào làng đều bị kiểm soát nghiêm ngặt.

Đêm, khi dân trong ấp tắt đèn, nằm im, hàm nghĩa là lính địch không về. Còn ngược lại, có lính về, cả làng thắp đèn sáng trưng, ấy là dấu hiệu bí mật báo cho quân giải phóng biết. Hoạt động cách mạng thật rất khó khăn…

Đêm ấy, bộ đội về, làng như đang ngủ yên bình, không một ánh đèn, anh em nằm từng nhóm ngoài hàng rào ấp chiến lược, chờ du kích ra thông tin mới vào sâu hoạt động.

Có một tiểu đội lính địch đang vào vườn mẹ Bảy. Mẹ đem đèn ra đánh diêm, định thắp đèn lên, nhưng tay tiểu đội trưởng giơ súng ngăn lại, kiêu căng nói với mẹ: “Để chúng tôi bắt sống bọn Việt Cộng cho bà xem”.

Mẹ Bảy quan sát chúng phân chia nhóm, mỗi nhóm gác một góc, súng lên đạn sẵn sàng, nếu cần nổ súng ngay.

Mẹ Bảy ngồi một chỗ mà nghe mồ hôi chảy tràn trên trán, trên mặt, mẹ lo, tình hình này anh em mình mở rào vào ấp, đi vào các nhà cơ sở, rất dễ cụng đầu với lính địch. Mẹ lo quá, vì chắc chắn không phải chỉ một nhà mẹ, mà cả làng, đều bị kiểm soát. Mẹ chưa tìm ra cách nào để báo cho quân giải phóng biết trong ấp có địch.

Chợt trong đầu mẹ lóe lên một ý nghĩ, mẹ đi lấy ấm, đổ nước vào, tên tiểu đội trưởng hỏi mẹ:

- Bà định làm gì đó?

Mẹ nói:

- Khách tới nhà, chủ phải mời trà mới phải đạo, tui xin phép đi nấu nước mời các ông uống.

Không hiểu được ý của mẹ, tên lính gật đầu đồng ý.

Vào bếp, mẹ cho bếp cháy lên ngay, đồng thời cầm ngay túm lửa nhỏ, giả vờ đi tìm gì đó trong nhà. Thấy im lặng, trong tích tắc, mẹ đưa túm lửa lên mái nhà, nhà bùng cháy.

Mẹ không ngờ tên tiểu đội trưởng vừa phát hiện ra hành động đốt nhà của mẹ, lập tức rút dao găm chém vào tay mẹ, máu chảy đầm đìa. Mẹ gọi ngay con gái đầu lòng đến băng vết thương cho mẹ, may tay mẹ không bị gãy.

Trong ấp, lúc đó, không hiểu sao, lính rầm rập kéo nhau bỏ ra khỏi làng… Chắc cho đến lúc ấy, tên tiểu đội trưởng mới hiểu ý đồ báo tin cho VC của mẹ, nên không thèm chữa cháy, cho quân rút khỏi nhà mẹ Bảy với ánh mắt hằn học, đe dọa...

Hàng xóm thấy cháy, vội vàng chạy đến dập lửa, nhưng căn bếp của nhà mẹ Bảy đã hoang tàn.

Một lúc sau, đợi lính đi xa khuất, hàng xóm ra về, du kích mới ra đưa bộ đội vào ấp. Họ kể cho anh Tâm nghe toàn bộ chuyện vừa xảy ra.

Anh Tâm dẫn một nhóm bộ đội vào gặp mẹ, anh nói ngay:

- Nếu không có sáng kiến của mẹ thì một là lũ chúng con nằm ngủ ngoài đồng làng, hai là bị chúng bắn ám sát cả loạt rồi.

Anh Tâm sau khi bảo anh y tá làm dịu vết thương cho mẹ, đã bàn ngay với du kích: rằng ngay ngày hôm sau, các gia đình góp tre, giúp sửa nhà bếp của mẹ Bảy thật đàng hoàng.

Quay sang đồng đội của mình, anh Tâm tâm tình:

- Bác Hồ nói: “Nếu không có dân liệu chúng ta làm được gì”. Ngay cả trước cái chết dân chẳng đã cứu chúng ta rồi đó sao?

N.Q.H
(SHSDB42/09-2021)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.

  • PHẠM HỮU THU
           Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12

    “Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).