Người Pa Kô ở A Lưới, Thừa Thiên – Huế và nhiều dân tộc vùng cao khác đều có nghệ nhân khèn bè nhưng điệu khèn lúc thì như nắng mới, như gió mơn man, như lau lách rì rào; khi thì da diết như tiếng lá khô chậm rãi rời cành…, thì chỉ có được trong điệu khèn Kăn A Kết. Điệu khèn nổi tiếng những năm 60, 70 của thế kỷ trước, lưu truyền trong dân gian nhưng rất ít người biết được…
Sau gần mười năm xa cách, xuân Giáp Ngọ này tôi mới có dịp quay lại vùng A Lưới, tìm đến ngôi nhà của già làng Quỳnh Mer – người lưu giữ nhiều truyền thuyết dân gian của các tộc người sinh sống trên dãy Trường Sơn. Khách đến vào dịp đầu Xuân hay những ngày làng có cuộc vui thường được già Quỳnh Mer kể chuyện bằng khèn. Tiếng khèn bè của già Quỳnh Mer kể cho tôi nghe về người con gái Pa Kô có tên là Kăn A Kết, xinh đẹp, giỏi giang. Gần bảy mươi năm về trước Kăn A Kết cùng gia đình từ làng A Ramon, xã Đông Sơn ở biên giới Việt – Lào chuyển về làng A Nin sinh sống. Người con gái đẹp được xem như viên ngọc quý của làng và điệu khèn Kăn A Kết cũng bắt đầu từ đó.
Rời nhà già làng Quỳnh Mer, chúng tôi đi tìm Kăn A Kết. Sau gần hai tiếng đồng hồ đi khắp làng A Nin, chẳng ai biết Kăn A Kết ở đâu, chuẩn bị ra về thì một cô gái trẻ hé lộ cho chúng tôi thông tin về người chơi bài khèn Kăn A Kết giỏi nhất, từng biết Kăn A Kết, đó là già Ku Veh.
Già Ku Veh sống trong ngôi nhà tranh tuềnh toàng. Sau khi thổi bài ca Kăn A Kết, già thú nhận đã từng theo nhiều người trong làng đến nhà người đẹp thổi cho nàng nghe bài hát này. Theo lời già, nàng là con gái trong một gia đình trung lưu, dáng người thon thả, gương mặt bầu bĩnh. Cái duyên khiến các chàng trai mê đắm Kăn A Kết, đó là nàng ăn nói rất khéo. Nàng thường dùng lối nói ví von để khen tặng và đáp lời khách.
Theo tục lệ, trai làng các vùng muốn được trò chuyện với nàng phải mang lễ vật đến tặng gồm tiền đồng, hạt cườm, trang sức hay đồng bạc hoa xòe (một đồng mua được một con trâu lớn theo giá thời bấy giờ). Cũng giống như những trai làng ngày ấy, già Ku Veh cũng không biết ai là người sáng tác ra bài khèn Kăn A Kết. Chỉ biết rằng, rất nhiều chàng trai thuộc điệu khèn này, hễ chàng trai nào thổi hay được nàng để ý là vui lắm rồi.
Hằng đêm, trai làng đứng quanh sân nhà nàng thổi bài Kăn A Kết. Lời bài khèn có đoạn nói rằng: "Có người đàn ông xấu nhưng lại lấy được người đẹp. Anh thổi khèn hay, sao em không xuống sàn nói chuyện cùng anh... Em đừng ưng người xấu. Em theo anh nhé, theo anh nhé!...”.
Cuối cùng, một chàng trai giàu có mang theo 30 chiếc chiêng, thanh la, 60 hạt cườm, hoa tai bạc đầy một giỏ, trâu bò mấy chục con... đến cưới nàng làm vợ. Ngày nàng lên kiệu hoa, nhiều chàng trai nhớ nàng đã cùng nhau thổi bài ca Kăn A Kết. Về sau, bài ca này lưu truyền trong dân gian và trở thành làn điệu không thể thiếu trong mỗi dịp hội hè của đồng bào sống trên dãy Trường Sơn.
Trên đường trở về, chúng tôi gặp một người phụ nữ, chị bảo rằng, biết người tên Kăn A Kết và dẫn chúng tôi vào căn nhà nhỏ, được bao quanh bởi những cây hồng trĩu quả. Nghe tiếng người lạ, một bà già bước ra từ vườn hồng, nhìn cốt cách và gương mặt, chúng tôi biết mình đã gặp được người cần tìm. Kăn A Kết trước mặt chúng tôi vẫn giữ được cốt cách của bông hoa đậm hương sắc núi rừng. Con trai nuôi của Kăn A Kết là anh Kê Ru Lô, Phó Chủ tịch thị trấn A Lưới. Bà được anh Kê Ru Lô nhận làm mẹ nuôi và đưa về chăm sóc hơn hai mươi năm nay do bà không còn người thân thích nào. Kăn A Kết còn có tên là Kăn Thai, sinh năm 1924, nguyên quán ở A Rưm, xã Hồng Nam. Xuân Giáp Ngọ này "mỹ nhân” Kăn A Kết tròn 90 tuổi. Anh Kê Ru Lô kể, có rất nhiều người muốn mời bà Kăn A Kết về chăm sóc, phụng dưỡng như mẹ già nhưng bà đã chọn gia đình anh.
Những hồi ức quá khứ của mỹ nhân đại ngàn dần hiện về trong câu chuyện với chúng tôi. Cụ Kăn A Kết không còn nhớ được nhiều, chỉ biết rằng, ngày ấy người chiếm lĩnh trái tim nàng tên là Khui, sống ở biên giới Việt – Lào. Chính Khui là người đã sáng tác nên bài ca Kăn A Kết lưu truyền lại cho các thế hệ sau. Chàng Khui mất vì bệnh nặng khi mới 20 tuổi.
Kỷ vật Kăn A Kết còn giữ lại là một chuỗi hạt cườm hình tứ giác mà bà đã mang theo gần bảy mươi năm nay. Thuở trước, nó có thể đổi được mấy con trâu. Sau này, Kăn A Kết lập gia đình với người có tên là Quỳnh Thôn, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn, hai người có với nhau 6 người con nhưng tất cả đều mất trong chiến tranh.
Kăn A Kết giờ đang hạnh phúc với gia đình người con nuôi. Xuân đến rồi xuân qua, đôi mắt "nàng” nay đã không còn nhìn rõ vạt hoa tím biếc trước sân nhà thế nhưng điệu khèn Kăn A Kết thì vẫn ngọt ngào cùng năm tháng.
Theo daidoanket.vn
Ngày kinh đô Huế thất thủ (5/7/1885), không những hàng vạn thần dân bị sát hại mà vô số cổ vật triều đình cũng bị cướp đi, kể cả ống đựng tăm xỉa răng.
Sau hơn 140 năm tồn tại, nhà Nguyễn đã để lại cả kho tàng cổ vật, làm nên phần hồn của di sản văn hóa Huế ngày nay.
Chuyên đề Phê bình Nữ quyền là một cố gắng của Ban biên tập nhằm giới thiệu những nét phác thảo ban đầu: “Người viết nữ, giới tính và trang giấy trắng” (Đoàn Huyến) đề cập Cái bẫy giới tính - giới tính như một cái bẫy êm ái - đã làm hạn chế sức sáng tạo; vậy phải thoát khỏi cái bẫy đó như thế nào? Và có đủ cam đảm để tự “khánh thành mình” như một trang giấy trắng, mà ở đó cô đơn và tự do là những xung lực lạ kỳ để chủ thể sáng tạo có thể thăng hoa? “Những khúc quành của văn học nữ Việt Nam đương đại” (Đoàn Ánh Dương) dẫn dắt bạn đọc đi theo hành trình văn học nữ Việt Nam từ sau 1975 đến nay; xác định những khúc quành: từ sự quy chiếu của diễn ngôn dân tộc qua diễn ngôn dân sự đến diễn ngôn đặt nền tảng ở nhìn nhận về tính cá thể.
Trong hành trình tìm kiếm và quảng bá những điểm đến hấp dẫn của Việt Nam, bằng những phương pháp so sánh, đối chiếu và bình chọn của các đơn vị du lịch, cộng đồng Kỷ lục gia Việt Nam, du khách trong cả nước. Vừa qua, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã công bố Top 45 điểm đến hấp dẫn nhất ở Việt Nam, trong đó Thừa Thiên Huế vinh dự có 6/45 điểm đến du lịch hấp dẫn được bình chọn.
Huế đã trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Ca Huế không chỉ phản ánh dòng chảy lịch sử, di sản này còn là quá trình tinh chế vốn văn hóa dân gian có nguồn gốc từ cội nguồn dân tộc Việt hỗn dung với văn hóa bản địa tạo nên một âm sắc Huế, rất riêng.
Với sự tham gia của ĐẶNG MẬU TỰU * LÊ VĂN LÂN * ĐINH CƯỜNG * PHẠM THỊ ANH NGA * LÊ HUỲNH LÂM * TÔN PHONG * MAI VĂN PHẤN * PHẠM ĐỨC MẠNH * HỒNG VINH * NGUYÊN NGỌC - TÔN NỮ MINH CHÂU * NGUYỄN XUÂN SANG * NGUYỄN ĐỨC TÙNG * ALICIA OSTRIKER * JEAN VALENTINE * TIM SUERMONDT * NHẬT CHIÊU * PHI TÂN * VÕ NGỌC LAN * PHƯƠNG ANH * NGUYỄN DƯ HOÀI MỤC * ĐỖ XUÂN CẨM * QUẾ HƯƠNG * NGUYỄN KHOA QUẢ * HOÀNG DIỆP LẠC * LÊ MINH PHONG * NGÔ ĐÌNH HẢI * NGÔ MINH
Sông Hương số đặc biệt tháng 9/2105 trân trọng gửi đến quý bạn đọc.
Số báo này xuất bản cũng nhằm vào những ngày Liên hiệp Hội tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 70 năm thành lập. Bài “70 năm, một dòng chảy văn học nghệ thuật nối tiếp văn mạch của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế” của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa sẽ điểm lại diễn trình 70 năm đáng tự hào của văn nghệ xứ Huế.
Hiếm có làng nào lại quy định rõ ràng về việc dọn thức ăn trong ma chay như làng Mỹ Phú (xã Phong Chương, H.Phong Điền, Thừa Thiên-Huế).
Ở không ít làng quê xứ Huế ngày nay, lệ làng vẫn tồn tại với nhiều quy định khắt khe, chặt chẽ.
Tháng 8 năm này, kỷ niệm 95 năm ngày sinh của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị (18/8/1920). Một bài viết trong số này, đã nhắc lại “cuộc hóa thân của đất đá” trong sự nghiệp lừng lẫy của bà. Các truyện ngắn được chọn đăng, vừa có những thử nghiệm bút pháp mới, vừa sâu thẳm tính nhân văn; và một lần nữa, trách nhiệm cụ thể của nhà văn được khơi mở: Làm sao vừa có những sáng tạo đầy bứt phá về nghệ thuật, vừa có thể gắn chặt với thực tại? Làm sao để những biến ảo kỳ diệu của tâm thức đời sống, của tiềm thức con người, của “cái bóng” đa nhân cách cuộc đời không dễ nắm bắt… có thể đi vào văn học nghệ thuật? Tất cả lại là những vấn đề muôn thuở của văn học
Chùa Từ Hiếu hay còn gọi là chùa “Thái giám” nằm trên ngọn núi Dương Xuân thuộc phường Thuỷ Xuân (TP.Huế). Đây là địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của Huế, nhưng ít người biết được nguồn gốc đầy nước mắt của ngôi cổ tự này. Nơi đây có một nghĩa trang của những con người mang thân phận không phải đàn ông mà cũng chẳng phải đàn bà...
Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng Thành – Kinh Thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng Thành và vương triều phong kiến.
Hệ thống thơ văn trên di tích Huế có một phần rất lớn là Ngự chế thi của vua Minh Mạng, trong đó, đặc biệt tại Hiếu Lăng (lăng vua Minh Mạng) là nơi có nhiều thơ của nhà vua được chạm khắc, trang trí để lưu truyền cho hậu thế.
Từ ngày 17 đến 23 tháng 7 năm 2015, trại sáng tác văn học Phong Điền năm 2015 đã diễn ra tại vùng Ngũ Điền do Hội nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với UBND huyện Phong Điền tổ chức.
Câu chuyện này lại có liên quan đến một sự kiện diễn ra cách nay đúng một 150 năm, đó là câu chuyện sứ đoàn đầu tiên của nước ta sang Pháp (1863 - 1864)...
Trên các đền đài, lăng tẩm, cung điện triều Nguyễn tại cố đô Huế xuất hiện hàng ngàn bài thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán. Hệ thống di sản tư liệu độc đáo này vừa được giải mã để đề nghị UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình ký ức thế giới.
Chỉ cần nhìn làn da bất chấp tuổi tác của những người phụ nữ trong gia đình này, bạn sẽ thấy bí quyết làm đẹp từ hoàng cung mà họ được truyền lại qua mấy đời thực sự diệu kỳ đến thế nào. Đó là bí mật để làm ra những viên phấn nụ, dưới công thức của các ngự y triều Nguyễn, chỉ dành cho những giai nhân ở chốn cấm cung.
Nét khác biệt của lăng Hoàng Cô gắn liền với câu chuyện cảm động về cuộc đời tiết hạnh của Công chúa Long Thành - người chị ruột của vua Gia Long.
Cung đường hình chữ S dẫn du khách lên Bạch Mã, chơi vơi gió, chơi vơi mây và chơi vơi tất cả mọi xúc giác…
Huế vốn là đất kinh kỳ, có rất nhiều thú vui tao nhã. Những thú vui đó đã tạo cho Huế một bản sắc riêng mà "chẳng nơi nào có được". Ngủ đò trên dòng sông Hương là một trong những thú vui như thế.