Lần ấy chúng tôi được gặp Bác

14:30 07/03/2011
TRƯƠNG THỊ KHUÊ(Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân)                                Hồi ký

Ảnh: tintuc.xalo.vn


Tháng 8 năm 1968, tôi được đi dự đại hội Thanh niên - sinh viên thế giới tại Xô-phi-a (Bun-ga-ri). Sau gần hai tháng xa tổ quốc, được trở về lại thủ đô, tôi cảm thấy ấm cúng vô cùng. Đại biểu của Quân khu 4 có ba nữ: đồng chí Trần Thị Bưởi quê ở Vĩnh Linh, đồng chí Nguyễn Thị Xuân ở Quảng Bình và tôi. Ba chúng tôi được bố trí ăn, nghỉ tại nhà khách của Bộ Quốc phòng, chúng tôi sống gắn bó, thân thiết như chị em ruột.

Ngày 11-9 năm ấy, chúng tôi được đồng chí Minh cán bộ Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam báo tin: chúng tôi sẽ được đến thăm Bác Hồ. Tin vui đến với chúng tôi quá đột ngột. Tôi đứng ngồi không yên.

Mùa thu, trời Hà Nội trong sáng mát mẻ, dễ chịu… thế mà trong người tôi cứ nóng ran lên. Tôi vừa mừng, vừa lo: Mừng sắp được gặp Bác; lo vì đây là lần đầu được gặp Bác, mình nên thưa với Bác những gì? Nếu Bác hỏi, mình có bình tĩnh để thưa lại với Bác thật cặn kẽ không…?

9 giờ sáng, xe ô tô đưa chúng tôi đến phủ Chủ tịch! Chúng tôi đang lúng túng khi gặp Bác nên đứng nghiêm chào theo điều lệnh quân đội, hay là vòng tay trước ngực rồi thưa: “Dạ, kính thưa Bác”? Chưa biết nên như thế nào, thì rất may, chú Vũ Kỳ bảo: “Các cháu là dân quân, chào Bác theo lối quân sự nhé!”. Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng chưa kịp trấn tĩnh, đã thấy Bác ngồi bên cạnh chiếc bàn tròn và đang chăm chú đọc báo. Ba chúng tôi xếp thành hàng, trước thềm nhà.

Thưa Bác, ba cháu dân quân gái quân khu 4 được Bác cho vào gặp đã đến. Chú Vũ Kỳ nói.

Bác ngẩng đầu lên, chúng tôi đưa tay lên vành mũ chào Bác. Bác cười rất vui và mời chúng tôi ngồi.

Trên bàn, đã để sẵn một đĩa kẹo và một đĩa bánh. Tôi chăm chú ngắm Bác, thấy Bác khỏe mạnh nước da hồng hào, mắt Bác sáng và nhanh nhẹn, râu và tóc bạc phơ như một ông tiên. Bác đội chiếc mũ vải màu xanh công nhân đã bạc màu, áo cộc tay ba túi, chân đi dép cao su quai to, gót đã mòn. Càng ngắm, tôi càng thấy Bác quá giản dị, gần gũi và thân thiết lạ lùng.

Chú Vũ Kỳ giới thiệu với Bác về tên tuổi, quê quán… của từng người trong chúng tôi.

Nghe xong, Bác cười rất hiền hậu:

- Các cháu ăn kẹo, ăn bánh đi. Vừa nói, Bác vừa bưng đĩa kẹo lên đưa cho mỗi chúng tôi. Ăn kẹo chưa hết, Bác lại đưa tiếp cho chúng tôi mỗi người một chiếc bánh. Bác nhìn tôi âu yếm và hỏi:

- Cháu ở Vĩnh Linh có bị máy bay B52 đánh nhiều không? Câu hỏi của Bác làm tôi rất xúc động. Bác trăm công nghìn việc mà vẫn dành thời giờ quan tâm theo dõi đến một vùng quê nhỏ hẹp của tôi. Rất xúc động, nhưng tôi cố hết sức bình tĩnh để thưa với Bác:

- Dạ, thưa Bác: Máy bay B52 đánh xuống Vĩnh Linh nhiều lắm, riêng xã cháu đã năm lần bị đánh B52, còn bom “tọa độ”, pháo địch từ bờ nam bắn sang và tàu biển địch bắn vào thì không kể hết được ạ.

Một nét buồn hiện lên cặp mắt hiền từ của Bác. Tôi băn khoăn tự trách mình sao lại kể cái ác liệt ra để làm Bác phải đau lòng. Bác hỏi tiếp:

- Địch đánh như thế bà con ta ăn ở ra sao?

- Thưa Bác, bà con vẫn tìm cách ăn ở được ạ. Ăn ở đều dưới hầm, đi lại từ nhà này sang nhà khác, từ xóm này sang xóm khác đều có giao thông hào ạ.

- Ăn ở dưới hầm như vậy, sức khỏe của bà con có bảo đảm không?

- Dạ, thưa Bác, hầm rộng rãi, tối ngủ vẫn mắc được màn. Nhà nào cũng có hầm ngủ, hầm nấu ăn, hầm chăn nuôi gia súc. Đội sản xuất và hợp tác xã có hầm để hội họp và thỉnh thoảng có tổ chức chiếu phim, diễn văn nghệ cho bà con xem.

- Thế có sản xuất được không? Bà con ăn có no không?

- Thưa Bác, bà con làm hầm ở ngoài đồng ruộng để cày cấy, gặt hái, sản xuất được nên ăn no, bình quân đầu người ăn mười sáu ký thóc một tháng, còn khoai sắn muốn ăn lúc nào cũng có ạ.

Bác cười rất vui và gật gật đầu: “Bà con ta ăn no, đánh Mỹ giỏi, sản xuất được thế là tốt”. Nói xong Bác lại cười vui hơn.

Thấy Bác vui, Bác cười thoải mái, chúng tôi mừng lắm.

Riêng tôi cảm thấy mình thưa với Bác chưa đầy đủ, tôi tự trách tại sao lúc nãy mình lại không thưa với Bác rằng: Hầm ở Vĩnh Linh rất chắc chắn thành một thế trận hẳn hoi, nhiều lúc bom địch nổ trên hầm mà bà con ở dưới hầm vẫn an toàn. Rằng có những hợp tác xã như Vĩnh Kim là vùng bị đánh phá ác liệt nhất, năng suất lúa vẫn đạt 5 tấn/ha. Có cả bộ đội pháo binh của ta thường xuyên đánh trả máy bay, tàu chiến Mỹ để bảo vệ nhân dân gặt mùa…

Sau khi đồng chí Xuân thưa chuyện với Bác xong. Bác đưa kẹo tiếp cho mỗi chúng tôi và Bác khen: “Các cháu giỏi lắm”. Số kẹo còn lại Bác chia ba rồi lấy báo gói lại, phát cho mỗi chúng tôi. Bác dặn:

- Các cháu ăn không hết thì đưa về nhà mà ăn.

Tôi cầm gói kẹo Bác cho mà cảm động, muốn khóc.

- Ra Hà Nội, các cháu đã được đi tham quan ở đâu chưa? Đến Hà Nội các cháu nhớ được những tên phố nào rồi? Kể cho Bác nghe đi.

Tôi thưa với Bác:

- Chúng cháu chưa đi đâu cả ạ.

Bác cười:

- Bác sẽ nói với các chú bên Tổng cục chính trị đưa các cháu đi xem để sau này còn về kể lại cho bà con cô bác nghe nữa chứ.

Nói xong, Bác đứng dậy, xốc lại áo và dẫn chúng tôi ra sân chụp ảnh. Ra đến sân, Bác bảo:

- Nghe nói dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh hát hay lắm, ba cháu hát cho Bác nghe ba bài nhé.

Chúng tôi bẽn lẽn nhìn nhau, nhưng rồi tôi mạnh dạn xung phong trước. Khi tôi vừa cất giọng thì Bác khoát tay với các chú đang đứng trong sân “đến nhanh lên để nghe các cháu hát”. Tôi hò một câu mái nhì do đội văn nghệ xã Vĩnh Thủy sáng tác:

Rừng Thủy ba nhiều cây gỗ quý

Người Vĩnh Thủy ý chí kiên cường,

Quê hương ơi vời vợi mến thương

Càng qua lửa đạn càng thêm trưởng thành


Tiếp đó đồng chí Xuân ngâm bài thơ về “Quảng Bình” và đồng chí Bưởi hát bài “Ai đã tới miền quê em Quảng Trị Thừa Thiên”.

Bác khen:

- Các cháu hát hay lắm.

- Các cháu gái hát rồi, giờ đến lượt các chú hát cho các cháu nghe.

Các chú nhìn nhau cười.

- Sao lại cười? Hát đi chứ.

Một chú thưa:

- Thưa Bác các cháu không biết hát xin nghe các cháu gái hát thôi ạ.

Cả mấy Bác cháu cùng cười to, rất vui, lúc này đồng chí nhiếp ảnh đang tìm chọn một vị trí đứng chụp cho thích hợp.

Bác thân mật hỏi:

- Cháu nào muốn đứng gần Bác? Cả ba chúng tôi reo lên:

- Cháu ạ.

- Cháu.

- Cháu ạ.

- Vậy thì cho mỗi cháu đứng gần Bác một lần, ta chụp ba lần.

Chụp ảnh xong, Bác dẫn chúng tôi đến trước nhà Bác. Cây phong lan nở những chùm hoa trắng mịn tỏa một mùi thơm dịu dàng. Bác đưa tay ngắt ba chùm phong lan tặng cho mỗi chúng tôi. Bác ân cần bảo:

- Hoa phong lan của Bác rất đẹp, nhưng thành tích của các cháu còn đẹp hơn hoa. Các cháu hãy giữ gìn và phát huy thành tích để tươi mãi như hoa. Trở về Quảng Bình, Vĩnh Linh, Bác gửi lời thăm bà con cô bác trong đó. Bác chúc bà con cô bác chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi. Riêng ba cháu phải chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi hơn nữa, phải khiêm tốn học tập nhiều hơn nữa.

Bác khoan thai bước vào nhà, chúng tôi tần ngần đứng ngắm theo, mãi đến khi bóng Bác khuất sau khung cửa, ba chúng tôi mới theo chú Vũ Kỳ ra xe.

Mấy ngày hôm sau, chúng tôi được đi tham quan một số danh lam thắng cảnh ở Hà Nội.

Ngày 16-9-1968, một tin vui bất ngờ nữa lại đến với chúng tôi: Bác gọi cho ba chúng tôi được vào ăn cơm với Bác.

Xe chở chúng tôi đến phủ Chủ tịch vừa dừng lại, tôi đã nhìn thấy Bác và thủ tướng Phạm Văn Đồng đứng đợi ở cửa. Thủ tướng ân cần hỏi thăm chúng tôi rồi dẫn vào nhà. Thấy chúng tôi đang lúng túng cởi giày, Bác hỏi:

- Ở nhà các cháu đi giày à?

- Thưa Bác, ở nhà chúng cháu đi dép cao su ạ.

- Ừ, đi dép cao su tiện lắm, đi giày không tiện bằng đi dép đâu.

Bác mời chúng tôi ngồi vào bàn ăn và Bác giới thiệu:

- Hôm nay chú Đồng đãi cơm các cháu đó.

Thủ tướng nói:

- Không phải cơm của cháu đâu, của Bác đó, Bác có cho chú mới đãi, Bác không cho thì chú không dám.

Cả mấy Bác cháu cười vui ấm cúng.

Bữa cơm trưa hôm đó những món thức ăn thật bình dị và đều là những “món ăn khu 4”: Cá trê kho, rau muống luộc chấm nước mắm ớt, cà “pháo” muối, khoai sọ nấu canh, thịt gà luộc.

Bác tự tay xới cơm cho mỗi chúng tôi, rồi Bác gắp đầu gà lên và hỏi:

- Cháu nào nhỏ nhất?

Đồng chí Bưởi đứng dậy. Bác cho đầu gà vào bát cơm của đồng chí Bưởi.

- Cháu nào lớn nhất?

Tôi đứng dậy:

- Dạ thưa Bác, cháu ạ.

Bác gắp lên bát tôi một cái phao câu và Bác gắp tiếp vào bát của đồng chí Xuân cái cánh.

Tôi vốn mồ côi từ khi lên tám tuổi, ở với bố, cảnh “gà trống nuôi con”. Nhưng rồi giặc Mỹ đã cướp mất bố tôi trong một trận B52. Tôi phải sống cảnh mồ côi cả mẹ lẫn bố… Giờ đây được bưng bát cơm tự tay Bác xới cho, tôi nghẹn ngào xúc động không sao ăn được.

Hình như thấu hiểu nỗi lòng của mỗi chúng tôi lúc này, Bác cười, giọng nhỏ nhẹ trìu mến.

- Các cháu ăn đi. Hồi còn trẻ, cả liễn cơm này Bác ăn một lúc là xong. Bây giờ, các cháu phải ăn thật khỏe để còn chiến đấu chứ!

Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói nhỏ nhẹ:

- Các con ăn đi. Gắng ăn đi.

Vâng lời Bác và thủ tướng, chúng tôi nén xúc động, ăn tiếp.

Sau bữa cơm, không dám làm mất nhiều thì giờ ảnh hưởng đến sức khỏe của Bác, chúng tôi luyến tiếc đứng dậy xin phép Bác và Thủ tướng ra về.

Bác và Thủ tướng gật đầu, và Bác dặn:

- Nếu các cháu còn ở đây, khi nào Bác với chú gọi thì vào kể chuyện cho Bác và chú nghe. Nếu ngày mai các cháu về, Bác gửi lời thăm quân và dân khu 4 nói chung, Quảng Bình và Vĩnh Linh nói riêng chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, nhất là bảo đảm giao thông vận tải thông suốt là Bác khỏe, Bác vui.

Tối ngày 20-9-1968, chúng tôi lại được Bác cho phép vào xem văn công. Bác cho ba chúng tôi được ngồi gần Bác rồi Bác giới thiệu với các chú về tên tuổi, quê quán, học hành, về thành tích chiến đấu… của mỗi chúng tôi, rất đầy đủ, chính xác.

Trời, Bác nghe chú Vũ Kỳ giới thiệu về ba chúng tôi mới chỉ một lần, thế mà Bác còn nhớ rất chi tiết. Bác của mình đang rất minh mẫn, trí nhớ của Bác tuyệt diệu… Tôi mừng trong bụng.

Trong quá trình xem văn công cứ biểu diễn xong một tiết mục Bác gọi đến với đến và thưởng một chiếc kẹo, tiết mục hay được người xem vỗ tay nhiệt liệt thì được Bác thưởng hai chiếc kẹo, cứ thế cho đến lúc kết thúc buổi biểu diễn.

Xem văn công xong, ba chúng tôi theo Bác ra cửa. Xuống đến bậc thang thứ tư Bác quay lại hỏi:

- Các cháu muốn nói gì với Bác nữa không?

Chao ôi! Đã đến lúc phải chia tay Bác rồi, biết khi nào mới được gặp lại Bác nữa? Mấy lần được gặp Bác. Tôi càng thấy Bác giản dị, gần gũi và thân thiết như một người ông với đàn cháu nhỏ trong nhà. Tôi muốn thưa với Bác biết bao nhiêu chuyện nữa, nhưng không sao nói được thành lời. Đồng chí Xuân và đồng chí Bưởi đứng yên lặng, tần ngần, rơm rớm nước mắt.

Tôi cố nén xúc động và thưa với Bác:

- Dạ, thưa Bác xin phép Bác cho chúng cháu được hôn lên má Bác ạ.

Thú thật, không biết sao lúc đó tôi lại mạnh dạn thưa với Bác điều đó.

Bác cười đôn hậu.

- Các cháu hôn vừa, không thì sọp má Bác mất.

Bác đồng ý cho ba chúng tôi được hôn lên má Bác. Đồng chí Xuân hôn Bác trước, rồi đồng chí Bưởi, đến lượt tôi, trong lòng rạo rực, tôi mang tất cả tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của một đứa cháu mồ côi ở miền đất lửa Vĩnh Linh kính cẩn hôn lên má vị cha già vô vàn kính yêu…

Tôi vừa hôn Bác xong, Bác cười:

- Cháu đi quốc tế về mà hôn không kêu gì cả ; kể cả ba cháu. Đi quốc tế hôn phải kêu, không thì họ cười cho đấy! Bác cháu cùng cười.

Chúng tôi phải chia tay Bác. Về đến nhà, đêm đó không sao ngủ được chúng tôi thao thức ôn lại từng cử chỉ, giọng nói, tiếng cười của Bác; nhớ lại hình ảnh Bác cho kẹo, cho chụp ảnh chung với Bác, Bác cho ăn cơm, cho xem văn công, cho được hôn lên má Bác… Những lời dạy bảo ân cần của Bác “Các cháu phải chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, phải khiêm tốn, học tập giỏi” và “Các cháu về Quảng Bình Vĩnh Linh, Bác gửi lời thăm bà con cô bác trong đó…” Tất cả đã đi vào ký ức của mỗi chúng tôi…

T.T.K.
(13/6-85)


 




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.

  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách