Lần ấy chúng tôi được gặp Bác

14:30 07/03/2011
TRƯƠNG THỊ KHUÊ(Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân)                                Hồi ký

Ảnh: tintuc.xalo.vn


Tháng 8 năm 1968, tôi được đi dự đại hội Thanh niên - sinh viên thế giới tại Xô-phi-a (Bun-ga-ri). Sau gần hai tháng xa tổ quốc, được trở về lại thủ đô, tôi cảm thấy ấm cúng vô cùng. Đại biểu của Quân khu 4 có ba nữ: đồng chí Trần Thị Bưởi quê ở Vĩnh Linh, đồng chí Nguyễn Thị Xuân ở Quảng Bình và tôi. Ba chúng tôi được bố trí ăn, nghỉ tại nhà khách của Bộ Quốc phòng, chúng tôi sống gắn bó, thân thiết như chị em ruột.

Ngày 11-9 năm ấy, chúng tôi được đồng chí Minh cán bộ Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam báo tin: chúng tôi sẽ được đến thăm Bác Hồ. Tin vui đến với chúng tôi quá đột ngột. Tôi đứng ngồi không yên.

Mùa thu, trời Hà Nội trong sáng mát mẻ, dễ chịu… thế mà trong người tôi cứ nóng ran lên. Tôi vừa mừng, vừa lo: Mừng sắp được gặp Bác; lo vì đây là lần đầu được gặp Bác, mình nên thưa với Bác những gì? Nếu Bác hỏi, mình có bình tĩnh để thưa lại với Bác thật cặn kẽ không…?

9 giờ sáng, xe ô tô đưa chúng tôi đến phủ Chủ tịch! Chúng tôi đang lúng túng khi gặp Bác nên đứng nghiêm chào theo điều lệnh quân đội, hay là vòng tay trước ngực rồi thưa: “Dạ, kính thưa Bác”? Chưa biết nên như thế nào, thì rất may, chú Vũ Kỳ bảo: “Các cháu là dân quân, chào Bác theo lối quân sự nhé!”. Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng chưa kịp trấn tĩnh, đã thấy Bác ngồi bên cạnh chiếc bàn tròn và đang chăm chú đọc báo. Ba chúng tôi xếp thành hàng, trước thềm nhà.

Thưa Bác, ba cháu dân quân gái quân khu 4 được Bác cho vào gặp đã đến. Chú Vũ Kỳ nói.

Bác ngẩng đầu lên, chúng tôi đưa tay lên vành mũ chào Bác. Bác cười rất vui và mời chúng tôi ngồi.

Trên bàn, đã để sẵn một đĩa kẹo và một đĩa bánh. Tôi chăm chú ngắm Bác, thấy Bác khỏe mạnh nước da hồng hào, mắt Bác sáng và nhanh nhẹn, râu và tóc bạc phơ như một ông tiên. Bác đội chiếc mũ vải màu xanh công nhân đã bạc màu, áo cộc tay ba túi, chân đi dép cao su quai to, gót đã mòn. Càng ngắm, tôi càng thấy Bác quá giản dị, gần gũi và thân thiết lạ lùng.

Chú Vũ Kỳ giới thiệu với Bác về tên tuổi, quê quán… của từng người trong chúng tôi.

Nghe xong, Bác cười rất hiền hậu:

- Các cháu ăn kẹo, ăn bánh đi. Vừa nói, Bác vừa bưng đĩa kẹo lên đưa cho mỗi chúng tôi. Ăn kẹo chưa hết, Bác lại đưa tiếp cho chúng tôi mỗi người một chiếc bánh. Bác nhìn tôi âu yếm và hỏi:

- Cháu ở Vĩnh Linh có bị máy bay B52 đánh nhiều không? Câu hỏi của Bác làm tôi rất xúc động. Bác trăm công nghìn việc mà vẫn dành thời giờ quan tâm theo dõi đến một vùng quê nhỏ hẹp của tôi. Rất xúc động, nhưng tôi cố hết sức bình tĩnh để thưa với Bác:

- Dạ, thưa Bác: Máy bay B52 đánh xuống Vĩnh Linh nhiều lắm, riêng xã cháu đã năm lần bị đánh B52, còn bom “tọa độ”, pháo địch từ bờ nam bắn sang và tàu biển địch bắn vào thì không kể hết được ạ.

Một nét buồn hiện lên cặp mắt hiền từ của Bác. Tôi băn khoăn tự trách mình sao lại kể cái ác liệt ra để làm Bác phải đau lòng. Bác hỏi tiếp:

- Địch đánh như thế bà con ta ăn ở ra sao?

- Thưa Bác, bà con vẫn tìm cách ăn ở được ạ. Ăn ở đều dưới hầm, đi lại từ nhà này sang nhà khác, từ xóm này sang xóm khác đều có giao thông hào ạ.

- Ăn ở dưới hầm như vậy, sức khỏe của bà con có bảo đảm không?

- Dạ, thưa Bác, hầm rộng rãi, tối ngủ vẫn mắc được màn. Nhà nào cũng có hầm ngủ, hầm nấu ăn, hầm chăn nuôi gia súc. Đội sản xuất và hợp tác xã có hầm để hội họp và thỉnh thoảng có tổ chức chiếu phim, diễn văn nghệ cho bà con xem.

- Thế có sản xuất được không? Bà con ăn có no không?

- Thưa Bác, bà con làm hầm ở ngoài đồng ruộng để cày cấy, gặt hái, sản xuất được nên ăn no, bình quân đầu người ăn mười sáu ký thóc một tháng, còn khoai sắn muốn ăn lúc nào cũng có ạ.

Bác cười rất vui và gật gật đầu: “Bà con ta ăn no, đánh Mỹ giỏi, sản xuất được thế là tốt”. Nói xong Bác lại cười vui hơn.

Thấy Bác vui, Bác cười thoải mái, chúng tôi mừng lắm.

Riêng tôi cảm thấy mình thưa với Bác chưa đầy đủ, tôi tự trách tại sao lúc nãy mình lại không thưa với Bác rằng: Hầm ở Vĩnh Linh rất chắc chắn thành một thế trận hẳn hoi, nhiều lúc bom địch nổ trên hầm mà bà con ở dưới hầm vẫn an toàn. Rằng có những hợp tác xã như Vĩnh Kim là vùng bị đánh phá ác liệt nhất, năng suất lúa vẫn đạt 5 tấn/ha. Có cả bộ đội pháo binh của ta thường xuyên đánh trả máy bay, tàu chiến Mỹ để bảo vệ nhân dân gặt mùa…

Sau khi đồng chí Xuân thưa chuyện với Bác xong. Bác đưa kẹo tiếp cho mỗi chúng tôi và Bác khen: “Các cháu giỏi lắm”. Số kẹo còn lại Bác chia ba rồi lấy báo gói lại, phát cho mỗi chúng tôi. Bác dặn:

- Các cháu ăn không hết thì đưa về nhà mà ăn.

Tôi cầm gói kẹo Bác cho mà cảm động, muốn khóc.

- Ra Hà Nội, các cháu đã được đi tham quan ở đâu chưa? Đến Hà Nội các cháu nhớ được những tên phố nào rồi? Kể cho Bác nghe đi.

Tôi thưa với Bác:

- Chúng cháu chưa đi đâu cả ạ.

Bác cười:

- Bác sẽ nói với các chú bên Tổng cục chính trị đưa các cháu đi xem để sau này còn về kể lại cho bà con cô bác nghe nữa chứ.

Nói xong, Bác đứng dậy, xốc lại áo và dẫn chúng tôi ra sân chụp ảnh. Ra đến sân, Bác bảo:

- Nghe nói dân quân Quảng Bình, Vĩnh Linh hát hay lắm, ba cháu hát cho Bác nghe ba bài nhé.

Chúng tôi bẽn lẽn nhìn nhau, nhưng rồi tôi mạnh dạn xung phong trước. Khi tôi vừa cất giọng thì Bác khoát tay với các chú đang đứng trong sân “đến nhanh lên để nghe các cháu hát”. Tôi hò một câu mái nhì do đội văn nghệ xã Vĩnh Thủy sáng tác:

Rừng Thủy ba nhiều cây gỗ quý

Người Vĩnh Thủy ý chí kiên cường,

Quê hương ơi vời vợi mến thương

Càng qua lửa đạn càng thêm trưởng thành


Tiếp đó đồng chí Xuân ngâm bài thơ về “Quảng Bình” và đồng chí Bưởi hát bài “Ai đã tới miền quê em Quảng Trị Thừa Thiên”.

Bác khen:

- Các cháu hát hay lắm.

- Các cháu gái hát rồi, giờ đến lượt các chú hát cho các cháu nghe.

Các chú nhìn nhau cười.

- Sao lại cười? Hát đi chứ.

Một chú thưa:

- Thưa Bác các cháu không biết hát xin nghe các cháu gái hát thôi ạ.

Cả mấy Bác cháu cùng cười to, rất vui, lúc này đồng chí nhiếp ảnh đang tìm chọn một vị trí đứng chụp cho thích hợp.

Bác thân mật hỏi:

- Cháu nào muốn đứng gần Bác? Cả ba chúng tôi reo lên:

- Cháu ạ.

- Cháu.

- Cháu ạ.

- Vậy thì cho mỗi cháu đứng gần Bác một lần, ta chụp ba lần.

Chụp ảnh xong, Bác dẫn chúng tôi đến trước nhà Bác. Cây phong lan nở những chùm hoa trắng mịn tỏa một mùi thơm dịu dàng. Bác đưa tay ngắt ba chùm phong lan tặng cho mỗi chúng tôi. Bác ân cần bảo:

- Hoa phong lan của Bác rất đẹp, nhưng thành tích của các cháu còn đẹp hơn hoa. Các cháu hãy giữ gìn và phát huy thành tích để tươi mãi như hoa. Trở về Quảng Bình, Vĩnh Linh, Bác gửi lời thăm bà con cô bác trong đó. Bác chúc bà con cô bác chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi. Riêng ba cháu phải chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi hơn nữa, phải khiêm tốn học tập nhiều hơn nữa.

Bác khoan thai bước vào nhà, chúng tôi tần ngần đứng ngắm theo, mãi đến khi bóng Bác khuất sau khung cửa, ba chúng tôi mới theo chú Vũ Kỳ ra xe.

Mấy ngày hôm sau, chúng tôi được đi tham quan một số danh lam thắng cảnh ở Hà Nội.

Ngày 16-9-1968, một tin vui bất ngờ nữa lại đến với chúng tôi: Bác gọi cho ba chúng tôi được vào ăn cơm với Bác.

Xe chở chúng tôi đến phủ Chủ tịch vừa dừng lại, tôi đã nhìn thấy Bác và thủ tướng Phạm Văn Đồng đứng đợi ở cửa. Thủ tướng ân cần hỏi thăm chúng tôi rồi dẫn vào nhà. Thấy chúng tôi đang lúng túng cởi giày, Bác hỏi:

- Ở nhà các cháu đi giày à?

- Thưa Bác, ở nhà chúng cháu đi dép cao su ạ.

- Ừ, đi dép cao su tiện lắm, đi giày không tiện bằng đi dép đâu.

Bác mời chúng tôi ngồi vào bàn ăn và Bác giới thiệu:

- Hôm nay chú Đồng đãi cơm các cháu đó.

Thủ tướng nói:

- Không phải cơm của cháu đâu, của Bác đó, Bác có cho chú mới đãi, Bác không cho thì chú không dám.

Cả mấy Bác cháu cười vui ấm cúng.

Bữa cơm trưa hôm đó những món thức ăn thật bình dị và đều là những “món ăn khu 4”: Cá trê kho, rau muống luộc chấm nước mắm ớt, cà “pháo” muối, khoai sọ nấu canh, thịt gà luộc.

Bác tự tay xới cơm cho mỗi chúng tôi, rồi Bác gắp đầu gà lên và hỏi:

- Cháu nào nhỏ nhất?

Đồng chí Bưởi đứng dậy. Bác cho đầu gà vào bát cơm của đồng chí Bưởi.

- Cháu nào lớn nhất?

Tôi đứng dậy:

- Dạ thưa Bác, cháu ạ.

Bác gắp lên bát tôi một cái phao câu và Bác gắp tiếp vào bát của đồng chí Xuân cái cánh.

Tôi vốn mồ côi từ khi lên tám tuổi, ở với bố, cảnh “gà trống nuôi con”. Nhưng rồi giặc Mỹ đã cướp mất bố tôi trong một trận B52. Tôi phải sống cảnh mồ côi cả mẹ lẫn bố… Giờ đây được bưng bát cơm tự tay Bác xới cho, tôi nghẹn ngào xúc động không sao ăn được.

Hình như thấu hiểu nỗi lòng của mỗi chúng tôi lúc này, Bác cười, giọng nhỏ nhẹ trìu mến.

- Các cháu ăn đi. Hồi còn trẻ, cả liễn cơm này Bác ăn một lúc là xong. Bây giờ, các cháu phải ăn thật khỏe để còn chiến đấu chứ!

Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nói nhỏ nhẹ:

- Các con ăn đi. Gắng ăn đi.

Vâng lời Bác và thủ tướng, chúng tôi nén xúc động, ăn tiếp.

Sau bữa cơm, không dám làm mất nhiều thì giờ ảnh hưởng đến sức khỏe của Bác, chúng tôi luyến tiếc đứng dậy xin phép Bác và Thủ tướng ra về.

Bác và Thủ tướng gật đầu, và Bác dặn:

- Nếu các cháu còn ở đây, khi nào Bác với chú gọi thì vào kể chuyện cho Bác và chú nghe. Nếu ngày mai các cháu về, Bác gửi lời thăm quân và dân khu 4 nói chung, Quảng Bình và Vĩnh Linh nói riêng chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, nhất là bảo đảm giao thông vận tải thông suốt là Bác khỏe, Bác vui.

Tối ngày 20-9-1968, chúng tôi lại được Bác cho phép vào xem văn công. Bác cho ba chúng tôi được ngồi gần Bác rồi Bác giới thiệu với các chú về tên tuổi, quê quán, học hành, về thành tích chiến đấu… của mỗi chúng tôi, rất đầy đủ, chính xác.

Trời, Bác nghe chú Vũ Kỳ giới thiệu về ba chúng tôi mới chỉ một lần, thế mà Bác còn nhớ rất chi tiết. Bác của mình đang rất minh mẫn, trí nhớ của Bác tuyệt diệu… Tôi mừng trong bụng.

Trong quá trình xem văn công cứ biểu diễn xong một tiết mục Bác gọi đến với đến và thưởng một chiếc kẹo, tiết mục hay được người xem vỗ tay nhiệt liệt thì được Bác thưởng hai chiếc kẹo, cứ thế cho đến lúc kết thúc buổi biểu diễn.

Xem văn công xong, ba chúng tôi theo Bác ra cửa. Xuống đến bậc thang thứ tư Bác quay lại hỏi:

- Các cháu muốn nói gì với Bác nữa không?

Chao ôi! Đã đến lúc phải chia tay Bác rồi, biết khi nào mới được gặp lại Bác nữa? Mấy lần được gặp Bác. Tôi càng thấy Bác giản dị, gần gũi và thân thiết như một người ông với đàn cháu nhỏ trong nhà. Tôi muốn thưa với Bác biết bao nhiêu chuyện nữa, nhưng không sao nói được thành lời. Đồng chí Xuân và đồng chí Bưởi đứng yên lặng, tần ngần, rơm rớm nước mắt.

Tôi cố nén xúc động và thưa với Bác:

- Dạ, thưa Bác xin phép Bác cho chúng cháu được hôn lên má Bác ạ.

Thú thật, không biết sao lúc đó tôi lại mạnh dạn thưa với Bác điều đó.

Bác cười đôn hậu.

- Các cháu hôn vừa, không thì sọp má Bác mất.

Bác đồng ý cho ba chúng tôi được hôn lên má Bác. Đồng chí Xuân hôn Bác trước, rồi đồng chí Bưởi, đến lượt tôi, trong lòng rạo rực, tôi mang tất cả tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của một đứa cháu mồ côi ở miền đất lửa Vĩnh Linh kính cẩn hôn lên má vị cha già vô vàn kính yêu…

Tôi vừa hôn Bác xong, Bác cười:

- Cháu đi quốc tế về mà hôn không kêu gì cả ; kể cả ba cháu. Đi quốc tế hôn phải kêu, không thì họ cười cho đấy! Bác cháu cùng cười.

Chúng tôi phải chia tay Bác. Về đến nhà, đêm đó không sao ngủ được chúng tôi thao thức ôn lại từng cử chỉ, giọng nói, tiếng cười của Bác; nhớ lại hình ảnh Bác cho kẹo, cho chụp ảnh chung với Bác, Bác cho ăn cơm, cho xem văn công, cho được hôn lên má Bác… Những lời dạy bảo ân cần của Bác “Các cháu phải chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, phải khiêm tốn, học tập giỏi” và “Các cháu về Quảng Bình Vĩnh Linh, Bác gửi lời thăm bà con cô bác trong đó…” Tất cả đã đi vào ký ức của mỗi chúng tôi…

T.T.K.
(13/6-85)


 




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)

  • LÊ KHAI           Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ.  Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.

  • HÀ KHÁNH LINH            Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ                                        Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!

  • TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.

  • TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.

  • NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.

  • PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước  vào đời.

  • NGUYỄN VĂN VINH                         Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.

  • TRẦN HOÀI                  Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...

  • LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.

  • NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.

  • TỐ HỮU        Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời

  • VÕ MẠNH LẬP            Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                          Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ                         Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.

  • NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.

  • TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.