Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ảnh: vietbao.vn
Vâng, chúng tôi muốn nói về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Cho đến tận hôm nay, sau chặng dài trên 30 năm duyên nợ với thơ, thơ của chị vẫn dồi dào, trẻ trung, mới mẻ và ngày càng thêm sâu sắc, tinh tế. Hiện chị vẫn được coi là một trong những cây bút thơ nữ hàng đầu của miền Trung và cả nước. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra từ trái tim đa cảm, từ tấm lòng luôn rộng mở trước cuộc đời và con người, từ tâm hồn trong trẻo như ánh mai, như lá non, như tiếng chim vườn nắng... Chất trực cảm mạnh mẽ và lâu bền ấy có khởi nguồn từ chính cuộc đời của chị, một cuộc đời không mấy bình an. Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra tại làng quê Lộc Thuỷ tốt tươi bên dòng sông Kiến Giang huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Dòng sông ấy khảm vào tâm hồn trẻ thơ của chị vẻ đẹp lung linh của những hoàng hôn con thuyền chở lúa về trong tiếng hò mái bảy mái ba, vẻ đẹp của những đêm trăng gặt lúa, giã gạo, vẻ đẹp của những bến nước con đò, vẻ đẹp của sự lam lũ mà yêu đời của những người dân quê nồng hậu. Miền quê Kiến Giang này không biết tự bao giờ đã là chiếc nôi của những điệu hò, câu lý rất quyến rũ như hò giã gạo, mái đẩy, mái nhì, hò mái xắp, mái nện... Đêm khuya nghe tiếng chày khắc cối- bạt gia đình ra đi! Ca dao Lệ Thủy nói như thế về cái thú đi đêm hát giã gạo chày ba. Quê hương ghi dấu ấn sâu đậm trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Từ một buổi “ Gặt đêm” trong chiến tranh, con người đứng cao hơn bom đạn:... “Mỗi người đội một vành trăng nhỏ/ Chấp chới nghiêng trên thảm lúa vàng.../ Đạn bom rơi chẳng sợ đâu/ Chỉ e sương ướt mái đầu lá chanh. Giọt mồ hôi đổ trên đồng lúa: Nhớ câu ca dao/ Nghe lòng thánh thót/ Giọt mồ hôi đọng trắng da người/ Cho hạt lúa hết cuộc đời lận đận... Đến những trưa mẹ ngồi đãi thóc... Bao nhiêu hạt lép trôi đi/ Hạt chắc đọng lại nói gì mẹ ơi... Khảm vào tâm hồn chị hình ảnh người mẹ một đời âm thầm nuốt nỗi đau riêng vào lòng, côi cút nuôi con bằng tất cả nghị lực bươn chải. Mẹ sinh ra ở miền An Cựu xứ Huế bên người cha “chòm râu trắng với cây đàn bầu” nên rất đam mê hò hát dân gian, thơ ca đối đáp. Dòng sông và đời mẹ hòa quyện thành mảnh đất màu mỡ đánh thức mầm thiên phú thơ ở Lâm Thị Mỹ Dạ từ rất sớm. Mười tuổi chị đã có bài thơ Dòng sông đen rất buồn. Nỗi đau buồn ấy được nhà thơ thổ lộ trong bài thơ “Hái tuổi em đầy tay” làm khi chị 24 tuổi: “... Mẹ sinh ra ngày này/ Mưa dột dầm mái tóc/ Gió tê buốt hai tay/ Mẹ không có cửa nhà/ Em- đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên lá/ Biết khi nào nở hoa...”. Nhà thơ Hải Bằng viết rằng: “Không biết buồn thì chẳng có thơ”. Lâm Thị Mỹ Dạ đã âm thầm làm thơ với trái tim khác vĩ đại hơn “Trái tim sinh nở”:... Chống chèo mình mẹ đương đầu bão dông/ Nuôi em trong dạ mẹ mong từng ngày/ Nỗi mình biết ngỏ ai hay/ Bao đêm nước mắt vơi đầy, mẹ ơi.../... Dẫu khi tắt nghỉ cuộc đời/ Trái tim mẹ giữa đất trời còn yêu... Bởi thế, Lâm Thị Mỹ Dạ viết nhiều, viết rất hay về mẹ, về tình yêu, về con gái. Một hình tượng cũ như trái đất mà luôn mới trong thơ chị, đó là trái tim, một trái tim sinh nở! Học xong cấp 3, chị không được đi đại học vì lý lịch, lại về thui thủi bên mẹ ở chợ Tuy Lộc và... làm thơ! Trái tim thơ không chịu khuất phục số phận. Một ngày nọ, nhà thơ Hải Bằng ở cơ quan phát hành sách Quảng Bình đi bán sách ở Lệ Thủy, nghe người ta đồn có cô bé Dạ làm thơ, mơi tìm thăm nhà. Đọc thơ Dạ, nhà thơ nhận ra đây là một tài thơ đích thực! Nhờ đó chị được điều về công tác tại Hội Văn nghệ tỉnh, và cũng từ đó chị đến với bạn đọc cả nước. THƠ đã dắt chị từ một làng quê đi ra với cuộc đời rộng lớn... Từ đầu những năm 70, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ xuất hiện trên thi đàn Việt Nam với những biên độ cảm xúc mở rộng hơn, với nhiều tứ thơ mạnh mẽ, mang âm hưởng cuộc chiến đấu lớn lao của dân tộc. Chùm thơ Khoảng trời hố bom, Gặt đêm, Đường ở Thủ đô giành giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1973 do nhà thơ Xuân Diệu làm chánh chủ khảo đã khẳng định tài năng của chị. Bài thơ Khoảng trời hố bom đã được tuyển vào chương trình giảng dạy trong nhà trường. Cho đến bây giờ 30 năm đã qua, bài thơ vẫn chứa chan xúc cảm, thể hiện độ chín tư duy và tay nghề của tác giả. Đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về cuộc chiến tranh chống Mỹ. Lâm Thị Mỹ Dạ kể rằng, hồi chiến tranh chị đã đến với 7 cô gái thanh niên xung phong ở đường 10 ở Quảng Bình. Người tiểu đội trưởng của tiểu đội chị em này lúc đó 30 tuổi kể rằng, 5 năm trước chị đã được giải ngũ về quê Thanh Hóa. Nhưng chị lặn lội về tới nơi thì gia đình chỉ còn lại là hố bom sâu hoắm, bố mẹ, ông bà, anh chị em đều đã chết! Đau đớn, cô gái gạt nước mắt quay lại đơn vị cùng đồng đội nguyện chiến đấu cho đến ngày toàn thắng. Những ngày hòa bình đầu tiên, nhà thơ có dịp lên đường 10, tìm lại chỗ ở đơn vị TNXP năm nọ thì chẳng thấy ai, chỉ gặp những hố bom đọng lại khoảng trời đầy nước. Bài thơ Khoảng trời hố bom ra đời trong hoàn cảnh ấy: Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất/ Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói lung linh.../... Tên con đường là tên em gửi lại/ cái chết em xanh khoảng trời con gái/ Tôi soi mình trong cuộc sống của em/ Gương mặt em bạn bè tôi không biết/ Nên mỗi người có gương mặt em riêng. Hình tượng thơ đạt đến độ khái quát điển hình! Lâm Thị Mỹ Dạ đi nhiều, viết nhiều, Chị viết về “Đường ở Thủ đô”, về trống đồng Đền Hùng, về anh hùng Trần Thị Tâm ở Quảng Trị, thơ cảm về ca khúc của XêĐôi, về Xi mô nốp (Nga), viết về Đà Lạt, Cửa Tùng... Viết về cái chung, về cuộc sống lao động chiến đấu của đất nước, nhưng chị không sa vào ca ngợi một chiều theo lối “phải đạo”. Thơ chị bao giờ cũng gắn cảm xúc với tâm trạng, tạo nên chiều sâu của hình tượng. Những cái bình thường vẫn lấp lánh triết lý cuộc sống: Đường bằng mà ngã lạ chưa?/ Ghập ghềnh đường chẳng đánh lừa được chân... (Đường ở Thủ đô), hoặc Mới hay lạ thế hồn người/ Dẫu chìm lấp vẫn tìm đời vút lên... (Tôi nghe đàn đá). Triết lý trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không phải là câu chữ duy lý mà là tiếng thổn thức của con tim từng thấm đẫm nỗi đau nhân tình. Chị thức với đêm Cửa Tùng, và thấy mình chính là một phần của quá khứ máu lửa:... Tình yêu tôi xót xa, mặn mòi, sâu bền như biển/ Tình yêu không bình yên mà sóng vỗ liên hồi/ Tôi như đi trong huyền thoại Cửa Tùng ơi. Chị làm nhiều thơ về mẹ, về con, về tình yêu. Bài thơ Anh đừng khen em được nhiều thế hệ bạn trẻ yêu thích, là một tuyên ngôn về cái gốc của tình yêu lâu bền, đó là lời ứng xử trọng cái thật, không chấp nhận cái sáo giả, dù đó là những lời phỉnh nịnh hàng ngày của tình yêu: Hãy chỉ cho em cái kém/ Để em nên người tốt lành/ Hãy chỉ cho em cái xấu/ Để anh chăm chút đời anh/ Tình yêu khắt khe thế đấy/ Anh ơi anh đừng khen em! (Anh đừng khen em). Chỉ có một tâm hồn trong sáng, tươi trẻ mới có được những câu thơ như thế. Lâm Thị Mỹ Dạ kể rằng, bài thơ chị làm xuất phát từ một câu chuyện có thật. Thời chiến tranh chống Mỹ, một nhà văn nam từ Thủ đô vào Quảng Bình luôn tán tỉnh Dạ bằng những lời sáo rỗng, không thật. Dạ làm bài thơ để cho anh ấy biết sự nghi ngại của mình. Làm xong, Dạ giấu xuống dưới gối, vì sợ thơ dở người khác đọc được cười cho. Một lần nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn vào Quảng Bình đến thăm Dạ, phát hiện ra bài thơ, chị xuýt xoa rằng “đây là bài thơ rất hay sao em lại định vứt đi”. Nhờ thế, bài thơ mới đến với độc giả! Tập thơ Bài thơ không năm tháng (giải thưởng Hội Nhà văn 1983) là một đỉnh cao mới khẳng định tài năng và vốn sống của Lâm Thị Mỹ Dạ. Ở tập thơ này cái chung, cái riêng được trình bày dưới ánh sáng mới của trái tim trải nghiệm, chín hơn, sâu đằm hơn với nhiều tứ thơ hay, lạ: Nhìn lá/ cứ ngỡ là lá ngọt.../ Nếu vẽ được chiếc hôn dưới mặt trời/ Tôi sẽ vẽ chiếc hôn như lá... Những năm tháng sau đó chị vừa đi học Trường Viết văn Nguyễn Du vừa nuôi con nhỏ (bé Bê Lim theo cách gọi hàng ngày của gia đình và của các nhà thơ bạn bè, chính là nhà thơ, nhà báo Hoàng Dạ Thi sau này). Nhà thơ hàng ngày phải mang con lên lớp, ngồi bên cạnh mình như một chú mèo con. Những năm tháng khó khăn phải ăn bo bo thay gạo, chị thấy con thèm sữa mà ứa nước mắt. Năm 1979, chiến tranh biên giới bùng nổ, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, chồng chị, từ Huế ra Trường Viết văn Nguyễn Du Hà Nội thăm và tạm biệt vợ con để đi thực tế tại mặt trận biên giới phía bắc, lúc đó khói lửa còn đang khét lẹt. Chị dốc hết khoản “ngân sách” còm cõi của mình cho chồng có lộ phí ra trận. Một lần nữa tiếng gọi của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, lời hẹn trong bài thơ “Đợi anh về” của Ximônốp lại thổn thức, vang lên trong trái tim mẫn cảm của chị. Bài thơ Bài thơ không năm tháng là lời nhắn gửi nồng nàn của nhà thơ tới người lính trong cuộc chiến đấu cam go mới của Dân tộc: Khi người còn chiến đấu/ Còn đợi chờ, chia ly/ Khắp ngả đường khói súng/ Thơ anh còn ra đi... (Gửi Ximônốp). Đợt đi đó anh Tường về viết bút ký Rừng hồi nổi tiếng. Cả hai vợ chồng đã thực sự có mặt, dấn thân và đã có những đóng góp quyết liệt theo cách của mình cho cuộc chiến đấu một mất một còn của Tổ Quốc! Cho đến nay Lâm Thị Mỹ Dạ đã có chặng đường thơ 30 năm. Chị đã xuất bản 5 tập thơ (Trái tim sinh nở (1974), Bài thơ không năm tháng (1983), Hái tuổi em đầy tay (1989), Mẹ và con (In chung với con gái Hoàng Dạ Thi- 1995) và Đề tặng một giấc mơ (1998) và ba tập truyện thiếu nhi. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch và xuất bản ở nhiều nước Nga, Mỹ, Ba Lan... Tập thơ Đề tặng một giấc mơ được giải nhất, tặng thưởng của Uy ban Trung ương Liên hiệp các HVHNT Việt Nam năm 1998, là một thành công mới của chị trên bước đường thi ca thăm thẳm. Thơ Dạ càng về sau càng hướng mạnh vào nội tâm, tìm về sự tự hỏi, sự cật vấn, sự đối thoại đầy trách nhiệm với chính mình trước cuộc sống đầy lo âu, khắc khoải: Sao không là con người? Hay: Anh có tốt không.../ Anh có tốt không?, hay Làm gì có biển mà đi/ Sông đành chua chát thầm thì cùng sông... Những cật vấn gan ruột ấy làm con người vững tâm, tin vào cuộc sống hơn.
Từ một cô học trò nhỏ xinh đẹp bên bờ sông Kiến Giang, Lâm Thị Mỹ Dạ đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng của cả nước. Thế giới thơ của chị là một thế giới lung linh màu sắc, biến ảo và luôn bất ngờ, mới mẻ. Không chỉ làm thơ viết truyện, chị còn tự học và sáng tác nhiều ca khúc trữ tình tha thiết. Những khi buồn chị lại hát. Bài hát về một miền quê xa thẳm trong tâm thức, về một dòng sông cháy lên như lửa, về một tình yêu luôn nhức nhối cõi lòng. Bài hát là tiếng thơ đồng vọng cất lên từ trái tim sinh nở. Trái tim không đập cho riêng mình... N.M (141/11-00) |
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh. TCSH
PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).
...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...
... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta! (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)
ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.
NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.
TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.
LÊ MỸ Ý ghi (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...
MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...
THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.
PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.
NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.
VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.
L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.
L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới
ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.
THU NGUYỆT (Trích tham luận tại Đại hội VII Hội Nhà văn Việt Nam)
ĐẶNG SĨ THIỆNThời bao cấp, ăn còn đói mà thơ lại hay. Sang thời nay ăn thừa thãi thì người ta lại không quan tâm đến thơ, thậm chí quay lưng lại với thơ (lời Bằng Việt).